Những Nội Dung Căn Bản Của Qui Chế Thương Nhân

đại diện uỷ quyền của pháp nhân: thực hiện toàn bộ hay một phần nhiệm vụ của pháp nhân ngoài trụ sở của pháp nhân. Người đứng đầu văn phòng đại diện, Chi nhánh của pháp nhân thực hiện nhiệm vụ theo uỷ quyền của pháp nhân. Hành vi của họ được coi là hành vi của pháp nhân khi xác lập và thực hiện các giao dịch thương mại.

Quốc tịch của pháp nhân là mối liên hệ pháp lý giữa pháp nhân với nhà nước, mỗi pháp nhân có quốc tịch riêng. Thông thường các quốc gia thiết lập các quy chế pháp lý riêng cho các pháp nhân trong nước và các pháp nhân nước ngoài và quan điểm của mỗi quốc gia thường ưu đãi hơn cho các pháp nhân trong nước. Việc xác định quốc tịch của pháp nhân có ý nghĩa trong việc xác định pháp luật chi phối các hoạt động của pháp nhân đó.

Năng lực của chủ thể của pháp nhân giúp pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật như là một chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác, cho nên pháp nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân. Khác với năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và đình chỉ pháp nhân. Đối với các pháp nhân theo quy định phải đăng ký hoạt động, thì năng lực chủ thể phát sinh kể từ thời điểm đăng ký.

Mỗi một pháp nhân được thành lập đều có mục đích và nhiệm vụ nhất định. Bởi vậy, năng lực chủ thể của pháp nhân phải phù hợp với mục đích hoạt động của pháp nhân đó. Mục đích hoạt động của pháp nhân được xác lập bởi quyết định thành lập pháp nhân hoặc điều lệ của pháp nhân do cơ quan có thẩm quyền đã thành lập pháp nhân đó chuẩn y. Việc thay đổi mục đích hoạt động dẫn đến thay đổi năng lực chủ thể của pháp nhân là năng lực chủ thể chuyên biệt phù hợp với mục đích và lĩnh vực hoạt động của nó. Bởi vậy, các pháp nhân khác nhau có năng lực chủ thể khác nhau.

Pháp nhân có sản nghiệp riêng là tài sản thuộc quyền của pháp nhân đó, do pháp nhân chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong phạm vi nhiệm vụ và phù hợp với mục đích hoạt động của pháp nhân. Tài sản của pháp nhân thể hiện dưới dạng

vốn, các tư liệu sản xuất và các loại tài sản khác phù hợp với từng loại pháp nhân. Tài sản của pháp nhân được hình thành trên những cơ sở khác nhau như nguồn vốn đóng góp của các thành viên, từ hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp...

Như vậy, về cơ bản thương nhân được chia thành thương gia thể nhân và thương gia pháp nhân. Trong đó, mỗi loại chủ thể với những đặc điểm riêng của mình lại được điều chỉnh bởi các quy định cụ thể bên cạnh những quy định chung của pháp luật về thương nhân. Ngoài ra, theo pháp luật của một số quốc gia, thì ngoài thương nhân là thể nhân và pháp nhân còn có thể có tổ hợp tác, hộ gia đình, hợp danh thực tế hay các dạng công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân (phụ thuộc vào quan niệm pháp nhân của mỗi quốc gia) được coi là thương nhân.

Bản chất pháp lý của công ty

Trên thương trường từ trước tới nay, công ty chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Người ta cho rằng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty vô danh đó gây dựng nên chế độ tư bản hiện thời ở các quốc gia Âu, Mỹ. Sự tồn tại của các loại hình công ty này cũng có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 9/2008, cả nước có khoảng 350.000 doanh nghiệp đó được thành lập và đăng ký kinh doanh. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2008, cả nước có khoảng

49.300 doanh nghiệp được thành lập và đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký khoảng 377.100 tỷ đồng, tăng 27,4% về số lượng và 28% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2007 (trang Kinh tế Việt Nam 20/10/2008). Cùng với sự ra đời của các doanh nghiệp đó tạo ra cơ hội việc làm cho hàng ngàn lao động. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh trong GDP đã có bước nhảy vọt, giúp ta thấy được khuynh hướng phát triển của các công ty trong khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam nó rất quan trọng và cần thiết trong đời sống kinh doanh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Điều 1832 Bộ luật Dân sự Pháp xác định: Công ty là một khế ước thông qua đó hai hay nhiều người thoả thuận với nhau sử dụng tài sản hoặc

khả năng của mình vào một hoạt động chung nhằm chia lợi nhuận hoặc kiếm lời có thể thu được qua hoạt động đó. Công ty có thể được thành lập trong những trường hợp do luật định bằng hành vi tự nguyện của một người. Các thành viên công ty cam kết cùng chịu lỗ.

Quy chế pháp lý của thương nhân trong kinh doanh du lịch tại Việt Nam - 5

Trong hệ thống pháp luật của Đức, khái niệm công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động để đạt được mục tiêu chung nào đó.

Khoản 1, Điều 57 của Bộ luật Thương mại Czech năm 1992 quy định: "Một công ty được thành lập trên cơ sở một khế ước lập hội (thoả thuận thành lập hoặc thoả thuận hợp danh) được ký kết bởi mọi người sáng lập, trừ khi các quy định của Bộ luật này đòi hỏi khác. Tính chân thực của chữ ký những người sáng lập nhất thiết phải được chứng nhận chính thức".

Qua một số khái niệm trên, ta có thể thấy về cơ bản công ty có ba đặc điểm:

- Sự liên kết của nhiều chủ thể (cá nhân hoặc tổ chức);

- Sự liên kết được thực hiện thông qua một số sự kiện pháp lý (Điều lệ Hợp đồng hoặc Quy chế);

- Nhằm thực hiện một mục đích chung.

Nếu theo ba đặc điểm trên đây thì sẽ có rất nhiều loại công ty với các mục đích khác nhau, hình thức và cơ cấu tổ chức khác nhau… Song không phải bất cứ loại hình công ty nào cũng có thể trở thành thương nhân và hưởng quy chế pháp lý của thương nhân. Mà hoạt động thương mại của mỗi nước lại xác định các loại hình công ty thương mại cụ thể, có tính chất bao quát và coi các công ty này là chủ thể thông thường của luật thương mại. Chẳng hạn, Bộ luật Thương mại Đức quy định thương gia hình thức là các công ty hợp danh, công ty hợp vốn, công ty vô danh… là công ty thương mại. Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ thừa nhận cả hai hình thức thương nhân là công ty đối nhân và công ty đối vốn.

Các hình thức công ty

Trong các công ty hoạt động kinh doanh có rất nhiều loại công ty khác nhau được phân biệt theo tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên và ý chí của cơ quan lập pháp. Nhưng dưới góc độ pháp lý, người ta chia công ty thành hai cơ bản là các công ty đối nhân và các công ty đối vốn:

Công ty đối nhân: Là những công ty mà liên kết dựa trên cơ sở độ tin cậy về nhân thân các cá nhân tham gia, sự hùn vốn là yếu tố thứ yếu. Công ty đối nhân có đặc điểm rất quan trọng là không có sự tách bạch tài sản cá nhân các thành viên công ty phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Các công ty đối nhân có hai loại chính là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản:

Công ty hợp danh là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên (đều là cá nhân và thương nhân) cùng tiến hành hoạt động (theo nghĩa rộng) dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty. Tất cả các thành viên của công ty đều có quyền quản lý, điều hành công ty.

Công ty hợp vốn đơn giản là loại công ty có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên nhận vốn) còn những thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong số vốn góp vào công ty. Một đặc điểm quan trọng của công ty hợp vốn đơn giản là tên công ty không được phép có tên của thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn mà chỉ là tên của các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn. Thành viên chịu trách nhiệm vô hạn kinh doanh dưới danh nghĩa (tên) của công ty và là người quản lý, điều hành công ty. Thành viên góp vốn không được quản lý, điều hành công ty, chỉ được hưởng lãi và chịu lỗ tương ựng với phần vốn góp và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp.

Trong công ty đối nhân không có sự tách bạch về tài sản của công ty và của các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn, vì vậy chúng thường được quy định không có tư cách pháp nhân. Sự kiện ra khỏi công ty hoặc chết của thành viên có thể là lý do để giải thể công ty.

Do tính chất đối nhân và tính chất chịu trách nhiệm vô hạn nên việc quản lý công ty hợp danh chịu rất ít sự ràng buộc của pháp luật.

Vì các điểm cơ bản trên đây nên nói chung các công ty đối nhân có số lượng thành viên rất hạn chế và thường là những người quen biết nhau. Vì phải tham gia điều hành hoạt động của công ty nên các thành viên phải hiểu biết về kinh doanh, ở nhiều nước họ hầu hết là thương nhân. Loại hình công ty này có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.

Công ty đối nhân có ưu thế nhất định trong lĩnh vực vay tín dụng do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên. Các thành viên gắn bó với nhau nên có thể liên kết để phát huy thế mạnh về nhân thân. Tuy nhiên cúng có những hạn chế do sự liên kết nhân thân giữa các thành viên nên khó mở rộng trong hoạt động huy động vốn. Do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn nên các công ty đối nhân thường ít đầu tư vào khu vực có nhiều rủi ro, điều đó có thể ảnh hưởng đến sự phát triển cân đối trong nền kinh tế và có thể có những nhu cầu của xã hội không đáp ứng. Các thành viên của công ty có thể tự tổ chức ra cơ chế điều hành hoạt động của công ty, họ cũng không nhất thiết phải có điều lệ hoạt động, không có quy định vốn pháp định. Công ty được thành lập trên cơ sở hợp đồng giữa các thành viên, nhưng luật pháp thường không bắt buộc hình thức hợp đồng. Chính những điều này đã tạo ra hạn chế khi tiến hành hoạt động kinh doanh với đối tác.

Công ty đối vốn: Khác với công ty đối nhân, công ty đối vốn không quan tâm đến tư cách cá nhân các thành viên công ty mà chỉ quan tâm đến các phần vốn góp vào công ty. Công ty đối vốn có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của các cá nhân thành viên. Các thành viên của công ty chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phần vốn góp phần vào công ty.

Theo hệ thống luật Châu Âu lục địa (Civil law) các nước như Đức, Pháp phân biệt rõ ràng hai loại công ty đối vốn thành: công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Các nước theo hệ thống luật án lệ (Common law) không phân chia như vậy mà theo pháp luật của các nước này chỉ có một

loại công ty đối vốn, Anh gọi là Company còn Mỹ gọi là Corporation. Trong đó, công ty được chia làm hai loại: công ty có phát hành cổ phiếu ra công chúng - loại công ty này có những đặc điểm giống công ty cổ phần; và công ty không phát hành cổ phiếu ra công chúng - loại công ty này tương tự công ty trách nhiệm hữu hạn ở các nươc theo hệ thống luật Châu Âu lục địa.

Công ty cổ phần có đặc trưng cơ bản là vốn điều lệ của công ty được chia ra thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Công ty cổ phần là loại công ty hoàn toàn mang tính chất của công ty đối vốn, thành viên công ty (cổ đông) có thể là người không có kiến thức về kinh doanh, không cần quen biết nhau; công ty có thể có rất nhiều thành viên nên việc quản lý của công ty này chịu rất nhiều sự ràng buộc của các văn bản pháp luật.

Khác với tất cả các loại hình công ty khác, công ty trách nhiệm hữu hạn là sản phẩm của hoạt động lập pháp, do các chuyên gia lập ra, pháp lý sáng tạo ra. Các loại hình công ty khác do các thương gia lập ra, pháp luật thừa nhận và góp phần hoàn thiện nó.

Công ty đối vốn có ưu điểm: Do chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn nên các nhà kinh doanh sẵn sàng đầu tư vào các khu vực rủi ro lớn khả năng họ phân tán vốn đầu tư vào nhiều cơ sở kinh doanh khác nhau. Tạo ra khả năng để các nhà kinh doanh giỏi có thể huy động được số vốn đầu tư lớn vào mục đích mở rộng kinh doanh. Mặt khác, công ty đối vốn ra đời là cơ sở cho thị trường vốn phát triển, các nguồn vốn trong xã hội dễ dàng được tập trung vào các khu vực cần thiết của nền kinh tế.Thành viên trong công ty dễ dàng thay đổi. Tuy nhiên do chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tài sản đối vốn các khoản nợ nên công ty đối vốn dễ dàng gây rủi ro cho các chủ nợ, đặc biệt là ngân hàng khi công ty đối vay các khoản nợ lớn.Việc công ty chỉ quan tâm phần tham gia của các thành viên mà không quan tâm đến tư cách cá nhân và số lượng thành viên công ty thường rất đông, nên có thể dẫn tới sự phân hoá các nhóm quyên lợi khác nhau, thậm chí chống đối lẫn nhau, những thành viên có địa vị thấp trong công ty dễ bị chèn ép. Do công ty đối vốn được công khai huy động

vốn nên dễ bị lạm dụng nhằm mục đích lừa đảo trong việc huy động vốn. Vì vậy, các công ty đối vốn phải chịu sự điều chình rất chặt chẽ bằng pháp luật.

Ngoài công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn người ta còn xếp công ty hợp vốn đơn giản cổ phần vào loại công ty đối vốn (pháp luật Việt Nam hiện hành chưa quy định loại hình công ty này). Trong công ty hợp vốn đơn giản cổ phần phải có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn còn các thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp. Thực ra đây là loại hình công ty hỗn hợp của công ty hợp vốn đơn giản và công ty cổ phần, nó tận dụng ưu điểm và khắc phục nhược điểm của từng loại hình công ty.

Trên đây là những khái quát chung về một số loại hình công ty đang tồn tại trong nền kinh tế hiện nay. Bên cạnh đó còn có rất nhiều loại hình công ty hỗn hợp khác, chúng có những đặc điểm mà pháp luật cần điều chỉnh riêng biệt. Các công ty này tuỳ thuộc theo quy định của mỗi nước mà được coi là có tư cách thương nhân hay không. Các công ty - thương nhân này đã và đang góp phần vào sự phát triển của thương mại nói riêng và các hoạt động kinh tế nói chung.

Qua những phân tích trên đây, ta thấy rằng lực lượng các thương nhân đã chiếm giữ một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là điều kiện hiện nay với xu hướng hội nhập quốc tế. Song cách hiểu cũng như quy định pháp luật của mỗi nước về thương nhân lại không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Chính điều này đã và đang gây ra những khó khăn đối với thương nhân khi tham gia vào việc trao đổi mua bán hàng hoá giữa các nước.

1.2.2. Những nội dung căn bản của qui chế thương nhân

1.2.2.1. Điều kiện vào nghề

Theo Điều 6 Luật Thương mại:

Thương nhân bao gồm các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh... Quyền hoạt động thương mại

hợp pháp của thương nhân được nhà nước bảo hộ. Nhà nước thực hiện độc quyền nhà nước có thời hạn về hoạt động thương mại đối với một số hàng hoá, dịch vụ hoặc tại một số địa bàn để bảo đảm lợi ích quốc gia. Chính phủ qui định cụ thể danh mục hàng hoá, dịch vụ, địa bàn độc quyền nhà nước [10].

* Đăng ký kinh doanh

Để hoạt động kinh doanh của thương nhân hợp pháp, được nhà nước bảo hộ thì thương nhân có nghĩa vụ phải đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật. Hiện nay hồ sơ đăng ký kinh doanh của thương nhân đó được đơn giản và rút gọn đáng kể nên yêu cầu về trách nhiệm của người đăng ký rất cao. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ, còn người đăng ký kinh doanh phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung giấy tờ có trong hồ sơ.

Thời hạn, thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

Thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là khoảng thời gian theo luật định, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền phải xem xét cấp hoặc từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho người xin phép. Thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh gắn với dự án đầu tư cụ thể tuỳ theo từng loại hình thương nhân. Trong vòng 10 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ, cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét và cấp hoặc không cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho người thành lập doanh nghiệp. Trong thời hạn nói trên nếu thấy không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho thương nhân thì cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh phải thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho chủ thể kinh doanh biết.

Trường hợp không được cấp giấy chứng nhận kinh doanh, đương sự có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại toà án theo qui định của pháp luật.

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 06/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí