Quy chế pháp lý của thương nhân trong kinh doanh du lịch tại Việt Nam - 6

Thủ tục đăng ký kinh doanh là trình tự các công việc và các bước mà thương nhân và cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành khi đăng ký kinh doanh. Pháp luật về thủ tục đăng ký kinh doanh gồm các qui định sau:

Hồ sơ đăng ký kinh doanh: Tuỳ thuộc vào hình thức tổ chức và ngành nghề kinh doanh của thương nhân mà yêu cầu về nội dung của hồ sơ đăng ký kinh doanh sẽ khác nhau. Đối với doanh nghiệp tư nhân thì hồ sơ đăng ký kinh doanh chỉ cần giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền qui định; nhưng đối với các công ty thì hồ sơ đăng ký kinh doanh lại cần phải có điều lệ công ty và danh sách thành viên hoặc danh sách cổ đông của công ty. Nếu kinh doanh những ngành nghề phải có vốn pháp định thì trong hồ sơ đăng ký kinh doanh phải có văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo qui định của pháp luật. Còn đối với ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề thì trong hồ sơ đăng ký kinh doanh phải có bản sao chứng chỉ hành nghề. Để tránh tình trạng tuỳ tiện gây phiền hà cho thương nhân pháp luật cũng qui định cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh không được yêu cầu người đăng ký kinh doanh nộp thêm bất kỳ giấy tờ nào khác ngoài các giấy tờ đã được pháp luật qui định.

Kinh doanh là quyền của công dân được pháp luật bảo vệ. Nhưng không phải mọi chủ thể trong xã hội đều có thể tự do kinh doanh mà bất chấp các điều kiện. Để bảo vệ quyền lợi cho chính các chủ thể đó cũng như các chủ thể khác trong xã hội, pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đặt ra các điều kiện đăng ký kinh doanh buộc các chủ thể kinh doanh phải tuân theo.

Điều 25 Luật Doanh nghiệp qui định về "Nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh" gồm:

- Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện.

- Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

- Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của thành viên hoặc cổ đông sáng lập là cá nhân; số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của chủ sở hữu công ty, của thành viên hoặc cổ đông sáng lập là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần; họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của chủ sở hữu công ty là cá nhân hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân.

- Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh; số cổ phần và giá trị vốn cổ phần đã góp và số cổ phần được quyền chào bán đối với công ty cổ phần; vốn đầu tư ban đầu đối với doanh nghiệp tư nhân; vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định.

- Ngành, nghề kinh doanh.

Trong quá trình hoạt động, khi có thay đổi về nội dung trong đăng ký kinh doanh như tên, địa chỉ, ngành nghề kinh doanh… thương nhân phải đăng ký những thay đổi này với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày làm việc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Điều kiện về ngành, nghề kinh doanh

Xuất phát từ đặc thù của mỗi loại ngành nghề và yêu cầu quản lý của nhà nước và cũng là giúp thương nhân có cơ sở để định hướng sự lựa chọn ngay từ khi đăng ký kinh doanh, pháp luật nước ta đã chia ngành nghề kinh doanh thành những nhóm cụ thể:

Quy chế pháp lý của thương nhân trong kinh doanh du lịch tại Việt Nam - 6

- Ngành nghề cấm kinh doanh;

- Ngành nghề kinh doanh có điều kiện;

- Ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định;

- Ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề.

Ngoài các nhóm trên, những ngành nghề còn lại thương nhân được tự do lựa chọn

Ngành nghề cấm kinh doanh: Đó là những ngành nghề nếu cho phép kinh doanh sẽ đe doạ xâm hại đến những giá trị và lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Danh mục ngành nghề cấm kinh doanh do Chính phủ qui định và sẽ có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế của từng thời kỳ.

Trong nền kinh tế thị trường, một qui luật đơn giản là ở đâu có cầu thì ở đó có cung. Nhu cầu của các chủ thể trong xã hội vốn rất đa dạng và luôn phát sinh, thay đổi theo thời gian, vì vậy các ngành, nghề kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu đó cũng không ngừng ra đời và phát triển. Tuy nhiên nhu cầu của xã hội không phải lúc nào cũng lành mạnh và chính đáng. Có những nhu cầu của một số cá nhân nhưng lại có nguy cơ làm tổn hại đến lợi ích của những cá nhân khác và lợi ích của cộng đồng, làm băng hoại những giá trị đạo đức, văn hoá, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội (như buôn bán ma tuý, môi giới mại dâm…). Trong những trường hợp đó, để bảo vệ các giá trị đạo đức, văn hoá, thuần phong mỹ tục, môi trường sinh thái, an ninh quốc phòng và lợi ích công cộng, pháp luật phải qui định những ngành nghề cấm kinh doanh. Nếu các thương nhân cố tình kinh doanh những ngành, nghề đó thì phải chịu những chế tài của nhà nước. Phạm vi ngành, nghề cấm kinh doanh rộng hay hẹp tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, vào quan niệm về những giá trị và lợi ích mà quốc gia đó quan tâm bảo vệ.

Ngành nghề kinh doanh có điều kiện: Đây là những ngành nghề kinh doanh mà ít nhiều cũng đe dọa xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của nhà nước và cộng đồng, nhưng những nguy cơ này có khả năng khắc phục được khi có điều kiện đi kèm. Để được kinh doanh ngành nghề này, các thương nhân phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Trong số những ngành, nghề kinh doanh lành mạnh thì không phải bất kỳ thương nhân nào cũng có thể kinh doanh được tất cả các ngành, nghề đó. Mà do đặc thù của một số ngành, nghề chỉ có những thương nhân đảm bảo các điều kiện nhất định về

vốn, qui mô, về năng lực chuyên môn, kinh nghiệm về một ngành nghề nhất định, điều kiện an toàn, vệ sinh… mới có đủ tư cách và khả năng để kinh doanh những ngành, nghề đó. Bởi vậy, bên cạnh việc qui định danh mục ngành nghề cấm kinh doanh, pháp luật về đăng ký kinh doanh của các nước còn phải qui định rõ những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, tạo ra sự minh bạch giúp cho các thương nhân có được sự lựa chọn chính xác khi đăng ký kinh doanh. Danh mục những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như năng lực quản lý của nhà nước. Danh mục này có thể thay đổi trong từng thời kỳ cho phù hợp với tình hình thực tế và chính sách của các quốc gia. Nhưng nhìn chung các quốc gia đều có xu hướng hạn chế dần các lĩnh vực ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và đơn giản hoá các điều kiện kinh doanh để tạo môi trường thuận lợi cho các thương nhân hoạt động.

Thương nhân có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh những ngành nghề có điều kiện thì thương nhân chỉ được tiến hành kinh doanh sau khi được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc sau khi thoả mãn các điều kiện theo qui định của pháp luật.

Đối với ngành nghề kinh doanh không cần giấy phép thì thương nhân vẫn phải đáp ứng các qui định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, qui định về phòng cháy, trật tự xã hội, an toàn giao thông và qui định về các yêu cầu khác đối với hoạt động kinh doanh. Đối với những ngành nghề kinh doanh này, sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thương nhân được quyền tiến hành hoạt động kinh doanh kể từ thời điểm có đủ các điều kiện kinh doanh theo qui định của pháp luật và cam kết thực hiện đúng các điều kiện đó trong suốt quá trình kinh doanh.

Ngoài ra, khi đăng ký kinh doanh chủ thể đăng ký cần phải lưu ý khi đặt tên doanh nghiệp, tên doanh nghiệp phải được đặt rõ ràng, không trùng với các doanh nghiệp đã đăng ký, phải đặt theo đúng qui định của pháp luật

để tránh nhầm lẫn. Tên thương mại, biển hiệu phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam. Tên thương mại, biển hiệu sau khi đăng ký trở thành một phần của sản nghiệp thương mại. Trụ sở chính của doanh nghiệp phải được xác định đầy đủ số nhà, xã, phường, quận, huyện, thành phố. Doanh nghiệp phải thông báo thời gian mở cửa tại trụ sở chính trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với cơ quan đăng ký kinh doanh. Việc sử dụng con dấu của doanh nghiệp cũng phải chấp hành theo qui định của pháp luật về lưu giữ, bảo quản và chịu trách nhiệm về hình thức, nội dung cũng như việc sử dụng con dấu theo qui định của Chính phủ. Chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện theo pháp luật của công ty chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung đăng ký kinh doanh.

1.2.2.2. Điều kiện hành nghề

Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, thương nhân phải tuân thủ các qui đinh của pháp luật như:

- Doanh nghiệp chỉ kinh doanh ngành nghề đó đăng ký kinh doanh.

- Đối với ngành, nghề kinh doanh phải có giấy phép kinh doanh, thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành, nghề đó, kể từ khi được cấp giấy phép kinh doanh.

- Đối với ngành, nghề kinh doanh phải có điều kiện kinh doanh không cần giấy phép, thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành, nghề đó, kể từ khi có đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định và thực hiện đúng các điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh.

- Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, thương nhân phải làm thủ tục đăng báo địa phương hoặc báo hàng ngày của

Trung ương trong ba số liên tiếp về các nội dung chủ yếu theo quy định tại Điều 21 Luật Doanh nghiệp để công khai hoá hoạt động kinh doanh của mình. Việc đăng báo trong ba số liên tiếp về các nội dung đăng ký kinh doanh của mình vừa là để quảng cáo sự xuất hiện của thương nhân trên thương trường vừa để đảm bảo sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của thương nhân, nó vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của thương nhân.

- Khi có thay đổi, bổ sung nội dung đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp có trách nhiệm làm thủ tục thay đổi theo quy định của pháp luật.

- Ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các công ty có trách nhiệm lập sổ đăng ký thành viên (đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên), sổ đăng ký cổ đông (đối với công ty cổ phần) theo quy định tại Điều 28, Điều 60 Luật Doanh nghiệp và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh.

Nghĩa vụ của thương nhân

Trong quá trình hoạt động của mình thương nhân phải thực hiện việc:

- Lập sổ kế toán ghi chép lưu giữ những hoá đơn, chứng từ, giấy tờ có liên quan đến hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật.Việc huỷ sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ, giấy tờ có liên quan đến hoạt động thương mại được thực hiện theo thủ tục pháp luật quy định.

Sổ kế toán chính là cơ sở pháp lý thể hiện toàn bộ mọi hoạt động của thương nhân, vì vậy, với quy định pháp luật đó là nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của mình.

- Lập sổ đăng ký góp vốn của các thành viên

- Thương nhân có nghĩa vụ phải đăng ký thuế, kê khai thuế và nộp thuế. Điều 11 Luật Thuế giá trị gia tăng qui định:

Đối với cơ sở mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày cơ sở được cấp giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh. Trường hợp cơ sở chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng có hoạt động kinh doanh phải đăng ký nộp thuế trước khi kinh doanh.

Các cơ sở kinh doanh đó đăng ký nộp thuế, nếu có thay đổi do sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi ngành nghề, nơi kinh doanh cũng phải khai báo với cơ quan thuế chậm nhất là năm ngày trước khi có sự thay đổi đó [11].

Thương nhân phải tuân theo các qui định về niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ tại địa điểm mua bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ. Việc niêm yết giá phải rõ ràng, không gây nhầm lẫn cho khách hàng.

Thương nhân có nghĩa vụ lập hoá đơn, chứng từ hợp pháp khi bán hàng cung ứng dịch vụ và giao cho khách hàng một bản.

Điều 4 và Điều 6 của văn bản ban hành theo Quyết định số 855/1998/QĐ-BTC ngày 16/7/1998 quy định:

Các tổ chức, cá nhân khi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng có giá trị thấp dưới 100.000đ mỗi lần thu tiền không bắt buộc phải cấp hoá đơn bán hàng. Trường hợp người mua hàng yêu cầu lập và giao hoá đơn thì người bán hàng vẫn phải lập và giao hoá đơn đúng quy định. Hàng hoá bán lẻ cho người tiêu dùng có giá dưới mức quy định tuy không phải lập hoá đơn, nhưng phải lập bảng kê theo luật định [14].

Doanh nghiệp phải chấp hành tốt chế độ báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh cho Phòng Đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế và cơ quan thống kê. Doanh nghiệp báo cáo định kỳ hàng tháng vào ngày 15 của tháng; hàng quý vào ngày 15 của tháng đầu tiên quý tiếp theo; hàng năm vào ngày 15 của tháng đầu tiên năm tiếp theo. Hàng năm, doanh nghiệp phải báo cáo tài chính trong thời hạn ba mươi ngày đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh, chín mươi ngày đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công

ty cổ phần, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp phải được gửi đến cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định tại Điều 118 Luật Doanh nghiệp.

Khi thay đổi các nội dung trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (như: thay đổi tên công ty, địa chỉ trụ sở chính, ngành nghề kinh doanh, vốn, người đại diện…) thì doanh nghiệp đến tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Sở Kế hoạch và Đầu tư để được hướng dẫn thủ tục thay đổi.

Việc buộc thương nhân phải thực hiện những nghĩa vụ là rất quan trọng trong việc kiểm soát thương mại của nhà chức trách ở các nước nhằm bảo đảm trật tự công cộng, thu thuế và bảo vệ người thứ ba ngay tình. Vấn đề này còn góp phần cho việc giải quyết các tranh chấp pháp lý. Chẳng hạn trong luật thương mại đôi khi có sự đảo ngược đối nhân và đối vật trong việc chứng minh vi phạm, có nghĩa là nghĩa vụ chứng minh được chuyển từ nguyên đơn sang bị đơn và việc này chỉ có thể thực hiện được thông qua hệ thống sổ sách của thương nhân. Các nghĩa vụ này làm cho thương nhân khác với người thường khi tham gia các giao dịch thuộc luật tư [21].

Quyền của thương nhân

- Thương nhân được đặt chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước, nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Nội dung và phạm vi hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện phải phù hợp với nội dung hoạt động của thương nhân.

- Thương nhân được mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng theo quy định của pháp luật. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi mà pháp luật dành cho thương nhân trong điều kiện của nền kinh tế thị trường khi mà mọi hoạt động đều diễn ra nhanh chóng và thuận tiện.

- Thương nhân có thể trực tiếp quản lý, điều hành hoặc thuê người quản lý, điều hành hoạt động thương mại.

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 06/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí