59
chính mới bộc lộ nhiều sai sót trong quá trình cấp tín dụng, thậm chí cấp tín dụng vượt thẩm quyền.
2.3.3.2 Nguyên nhân khách quan
Môi trường pháp lý chưa thuận lợi
Các định hướng phát triển của Nhà nước thường xuyên thay đổi, điều chỉnh cơ chế chính sách làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế chính sách của Chính phủ, của NHNN về cho vay, bảo đảm tiền vay, xử lý nợ xấu... còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với thực tế, đổi mới và chỉnh sửa bổ sung còn chậm. Quy chế cho vay của NHNN và hướng dẫn của Ngân hàng có điểm quy định thiếu cụ thể, nên khi triển khai thực hiện còn vướng mắc, còn nhiều cách hiểu khác nhau để dẫn đến rủi ro. Các văn bản pháp luật về tài sản thế chấp còn nhiều bất cập, nhất là xác định quyền sở hữu các tài sản dùng làm thế chấp.
Quy trình phát mại tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất còn phức tạp, đất thế chấp nhưng ngân hàng không tự định đoạt được mà phải xin ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn hoặc phải khởi kiện ra tòa, Pháp luật chưa ban hành đầy đủ các văn bản pháp lý về thẩm quyền của người cho vay hoặc cơ quan chức năng trong việc phát mại TSTC, cầm cố... chưa có cơ chế cưỡng bắt buộc người vay vốn có nghĩa vụ giao TSĐB cho ngân hàng xử lý, khi không có khả năng trả nợ. Điều này dẫn đến tình trạng khách hàng trây ỳ, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà ngân hàng chưa thu hồi được.
Luật doanh nghiệp Nhà nước chỉ mới quy định doanh nghiệp được dùng tài sản nhà nước để thế chấp nhưng việc xử lý tài sản để thu hồi nợ khi doanh nghiệp không trả được nợ vay thì không quy định.
Pháp lệnh thống kê đến nay đã bộc lộ nhiều thiếu sót, do chưa thực sự xử lý nghiêm minh các doanh nghiệp vi phạm pháp lệnh. Thủ tục khởi kiện của ngân hàng còn rườm rà. NHNN chưa khắc phục được công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Hệ thống thông tin tại trung tâm tín dụng NHNN (CIC) chưa đáp ứng được nhu cầu của ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía khách hàng
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Tín Dụng Theo Ngành Kinh Tế Của Nhct Giai Đoạn 2011-2013
- Chỉ Tiêu Hệ Số Sử Dụng Vốn Của Nhct Giai Đoạn 2010-2013
- Đánh Giá Chung Về Hoạt Động Quản Trị Rrtd Của Nhct
- Giải Pháp Tăng Cường Quản Trị Rrtd Tại Nhct Việt Nam
- Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam VietinBank - 11
- Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam VietinBank - 12
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
Những rủi ro do khách hàng mang lại thường nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng và đa số RRTD đều bắt nguồn từ khách hàng.
Những nguyên nhân cơ bản có thể kể đến như khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích như đã cam kết trong hợp đồng, dẫn tới làm ăn thua lỗ hoặc không có nguồn tiền để trả nợ. Để tạo niềm tin trước ngân hàng, không ít khách hàng giả lập phương án không có thật để vay vốn hòng chiếm đoạt tiền của ngân hàng hoặc đầu tư cho hoạt động phi pháp, không hiệu quả. Ngoài ra, khách hàng còn vay lừa đảo bằng việc chiếm đoạt tài sản được hình thành từ vốn vay (cho vay mua nhà trả góp, mua bất động sản, đồ dùng công nghệ...) do lợi dụng được sơ hở.
Các doanh nghiệp không tuân thủ nghiêm ngặt chế độ BCTC, bản thân họ không thấy tầm quan trọng của BCTC nên các báo cáo tài chính gửi ngân hàng thường có chất lượng kém: thiếu thông tin và sai lệch thông tin. Thông tin thiếu sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích, đánh giá thực trạng của khách hàng, gây phiền toán mất thời gian do cán bộ ngân hàng phải đến tận doanh nghiệp để xác minh lại thông tin. Ngoài ra, rất ít các doanh nghiệp hiện nay thực hiện kiểm toán BCTC. Vì thế, ngân hàng khó có thể phát hiện ra sai sót trong việc chấp hành chế độ kế toán của những doanh nghiệp này, dẫn đến việc đưa ra phán quyết tín dụng đôi khi không chuẩn xác.
Bên cạnh đó, TSĐB từ các khoản vay của ngân hàng thường là bất động sản hoặc các phương tiện vận tải. Nguy cơ biến động giá cả trên thị trường, khó phát mại tài sản, tài sản bị hao hụt vô hình và hữu hình, thiếu ý thức giữ gìn, bảo quản của khách hàng... cũng gây ra rủi ro cho ngân hàng khi phát mại tài sản.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHCT VIỆT NAM
3.1 Định hướng công tác quản trị RRTD của NHCT trong thời gian tới
3.1.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động tới hoạt động tín dụng và quản trị RRTD của NHCT Việt Nam
Những năm tới, Chính phủ ưu tiên hàng đầu việc thúc đẩy phát triển kinh tế trên cơ sở ổn định tỷ giá và kiềm chế lạm phát, nhiều biện pháp tiền tệ và tài khóa có thể sẽ được triển khai nhằm điều tiết nhịp nhàng cung cầu vốn cả nội tệ và ngoại tệ khiến thị trường có những biến động nằm ngoài dự đoán của ngân hàng.
Việc Thông tư số 02/2013/TT-NHNN có hiệu lực thi hành trong năm 2014 mặc dù sẽ có tác động tích cực tới việc phân loại và kiểm soát nợ xấu của hệ thống ngân hàng nhưng sẽ dẫn tới những thay đổi không nhỏ trong hoạt động cũng như kết quả kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra, tình hình chậm phục hồi của nền kinh tế cũng sẽ khiến việc hiện thực hóa các mục tiêu đặt ra của ngân hàng gặp không ít khó khăn khi cầu tín dụng tăng trưởng thấp và nợ xấu có nguy cơ gia tăng nếu doanh nghiệp không thể giải quyết hàng tồn kho và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, những bất ổn về chính trị thế giới có thể khiến các nhà đầu tư lo ngại rút vốn ra khỏi các thị trường đang phát triển, dẫn tới sự thay đổi luồng vốn đầu tư quốc tế. Dự kiến cắt giảm gói cứu trợ QE3 của Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ cũng có khả năng sẽ tác động tới lãi suất trong ngắn hạn và nguồn cung vốn quốc tế, từ đó ảnh hưởng đến việc huy động vốn quốc tế và chi phí vay của ngân hàng.
3.1.2 Định hướng công tác quản trị RRTD của NHCT
Công tác quản trị RRTD luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu tại NHCT nhằm đáp ứng mục tiêu tăng trưởng tín dụng ổn định và bền vững. Ngân hàng sẽ tiếp tục nghiên cứu các biện pháp nâng cao chất lượng quản trị RRTD hướng tới chuẩn mực quốc tế, đảm bảo sự minh bạch, hiệu quả và hiện đại, trên cơ sở tăng trưởng đi đôi với kiểm soát RRTD. Cụ thể:
3.1.2.1 Hoàn thiện khung quản trị RRTD
Một hệ thống quản trị rủi ro chất lượng phải được đặt trong môi trường rủi ro phù hợp. Chiến lược rủi ro trong đó xác định rõ mức độ chấp nhận rủi ro chung, và mức độ chấp nhận RRTD nói riêng là kim chỉ nam cho sự vận hành của hệ thống
quản trị RRTD. Hơn nữa, khung quản trị RRTD bao hàm các chiến lược phát triển tín dụng chung, những chính sách tín dụng cơ bản, quan trọng chính là một yếu tố cần thiết trong hệ thống quản trị RRTD. Vậy nên, chiến lược rủi ro của ngân hàng phải được hình thành trên những đánh giá toàn diện, cụ thể tình hình kinh doanh của ngân hàng, lợi nhuận kỳ vọng của các cổ đông và bối cảnh kinh tế trong nước. Hội đồng quản trị chính là cơ quan chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc phê duyệt chiến lược rủi ro của ngân hàng.
- Nhận thức và văn hóa QTRR
- Chiến lược QTRR
- Triết lý QTRR
- Mức độ chấp nhận rủi ro
- Cơ cấu tổ chức và chức năng
- Nhân sự
- Chính sách
- Công nghệ
- Phương pháp luận
- Quy trình
- Báo cáo
- Nhận diện rủi ro
- Đánh giá rủi ro
- Quản trị rủi ro
- Giám sát, theo dõi
Khung QTRR
Cơ sở hạ tầng
Các bước QTRR
Sơ đồ 3.1: Các cấu phần quản trị rủi ro chủ yếu
Nguồn: Theo Basel II
3.1.2.2 Xây dựng quy trình cấp tín dụng hợp lý
Để xây dựng được quy trình cấp tín dụng hợp lý, ngân hàng cần thiết phải đặt ra những tiêu chí cấp tín dụng, cơ chế phân cấp thẩm quyền phù hợp, phản ánh đặc trưng rủi ro của ngân hàng. Ngoài ra, các chính sách tín dụng đối với các khoản vay mới đồng thời những khoản vay cũ cần phải được xem xét, cân nhắc thường xuyên phù hợp với chiến lược rủi ro cho từng thời kì.
3.1.2.3 Tiếp tục lộ trình hoàn thiện mô hình QTRR theo chuẩn quốc tế
NHCT tiến tới mô hình quản trị RRTD hiện đại tuần tự theo các giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Thiết lập Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm tính toán ba cấu phần PD, LGD và EAD. Ngân hàng sẽ phát triển các ứng dụng trong việc quản trị RRTD trên nhiều phương diện, mà ứng dụng đầu tiên là tính toán, đo lường RRTD qua thước đo EL và UL với một khách hàng cụ thể.
Giai đoạn 2: Quản lý rủi ro danh mục đầu tư bằng cách lượng hóa mức tổn thất dự kiến (ELp) và ngoài dự kiến (ULp) của cả danh mục đầu tư dựa trên việc xác
định độ rủi ro tương quan giữa các tài sản/mức vỡ nợ của các tài sản có rủi ro và mức rủi ro tập trung của cả danh mục.
Giai đoạn 3: Dựa trên các giải pháp quản trị rủi ro danh mục đầu tư, ngân hàng có thể quản lý vốn kinh tế và định giá khoản vay theo mức rủi ro tương ứng.
Giai đoạn 4: Thay vì quản trị rủi ro danh mục một cách thụ động, ngân hàng hướng đến việc quản trị rủi ro danh mục tín dụng chủ động (ACPM - Active crdit portfolio management) bằng việc xác định và chuyển giao rủi ro một cách chủ động thông qua việc sử dụng ngân quỹ tín dụng và chứng khoán hóa khoản vay (Credit Treasury and Securitisation).
Giai đoạn 5: Mô hình toàn diện nhất là quản trị rủi ro trên cơ sở giá trị (Value-based management - VBM). Theo đó, tất cả các giá trị đã được điều chỉnh rủi ro của khoản tín dụng đơn lẻ cho đến danh mục đầu tư đều được xác định, giúp công tác quản trị RRTD được hiệu quả, chính xác.
Sơ đồ 3.2: Mô hình quản trị RRTD
Quản lý trên
nguyên tắc giá trị
VBM
Chuyển giao rủi ro và quản lý
danh mục
Ngân
quỹ, chứng khoán hóa
APCM
Quản lý vốn kinh
tế và định giá
Tổng hợp RR
và phân bổ RR
Định giá
theo rủi ro
Quản lý
danh mục
Mô hình hóa Đo lường rủi ro tương quan mức rủi ro tài sản/ mức vỡ nợ tập trung
Tính mức tổn thất
danh mục
QTRR theo
Basel II
PD
LGD
EAD
EL
Nguồn: Theo Basel II Hiện tại, NHCT đã thực hiện tốt mô hình quản trị RRTD giai đoạn 1 và đang chuyển đổi mô hình sang giai đoạn 2. Ngân hàng có nhiều lợi thế về tiềm lực tài chính cũng như công nghệ nên hoàn toàn có đủ khả năng đi tiếp lộ trình 5 giai đoạn
này.
3.1.2.4 Nâng cao chất lượng công tác giám sát, kiểm soát tín dụng
Theo ủy ban Basel, đảm bảo hiệu quả công tác giám sát, kiểm soát tín dụng nội bộ là một trong những nguyên tắc quản trị RRTD thiết yếu. Các công việc đánh giá thước đo rủi ro, chất lượng quản trị rủi ro, mức độ đảm bảo tuân thủ các quy trình, quy định, hạn mức tín dụng phải được thực hiện thường xuyên bởi các bộ phận quản lý rủi ro và bộ phận giám sát độc lập khác.
3.2 Kinh nghiệm quản trị RRTD của một số ngân hàng trên thế giới
3.2.1 Ngân hàng Citibank của Mỹ
Thứ nhất, Citibank thực hiện đánh giá độ tin cậy của người đi vay theo mô hình “Tín dụng 5C” như sau:
- Character of management: Năng lực quản trị của người vay
- Financial capacity of the venture: Năng lực tài chính của người vay
- Collateral security: Thế chấp đảm bảo khoản vay
- Condition of the industry: Lĩnh vực mà người vay hoạt động
- Condition of terms: Các điều khoản và điều kiện tín dụng.
Để đưa ra quyết định chấp thuận hay từ chối cho vay thì các cán bộ phải đánh giá thận trọng, khách quan dựa vào các tiêu chí đề ra. Việc xét duyệt cho vay bao gồm quá trình kiểm tra hồ sơ, kiểm tra việc thanh toán đúng hạn các khoản vay trước đó, kiểm tra và đánh giá TSTC cùng với mức độ rủi ro của khoản vay.
Thứ hai, Citibank có sự phân biệt giữa quyền cấp tín dụng và quyền phê
duyệt.
Quyền cấp tín dụng được ủy nhiệm cho CBTD dựa trên năng lực và tư cách,
kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ học vấn và đào tạo của nhân viên mà không dựa vào chức vụ của cá nhân đó trong ngân hàng.
Quyền phê duyệt, cấp tín dụng không do một người quyết định mà phải được sự nhất trí của ba CBTD – những người chịu trách nhiệm về cho vay và phải thông qua các chương trình tín dụng hay giao dịch tín dụng riêng lẻ.
3.3.2 Ngân hàng ING bank của Hà Lan
ING bank là một trong số các ngân hàng hàng đầu châu Âu đạt được nhiều thành công trong công tác quản trị RRTD. Mô hình mà ngân hàng áp dụng có nhiều điểm ưu việt:
Về cơ cấu bộ máy: Hệ thống quản trị rủi ro tại ngân hàng được tách bạch hoàn toàn với bộ phận kinh doanh và khách hàng, được báo cáo trực tiếp lên lãnh đạo cao nhất. Cơ cấu quản trị RRTD gồm ba bộ phận: Bộ phận chính sách, Bộ phận quản lý rủi ro và Bộ phận xây dựng mô hình tính toán lượng hóa rủi ro.
Về thẩm quyền quản lý rủi ro: Ý kiến của bộ phận quản lý RRTD là yêu cầu bắt buộc của các quyết định tín dụng. Ngân hàng có xu hướng áp dụng hình thức cấp hạn mức tín dụng trên cơ sở đề xuất của bộ phận kinh doanh/ khách hàng, bộ phận rủi ro sẽ lập báo cáo đề xuất đánh giá độc lập đề nghị duyệt một hạn mức tín dụng phù hợp cho từng khách hàng trong một thời hạn thường là một năm và bộ phận kinh doanh/ khách hàng được sử dụng hạn mức đó. Các khoản tín dụng vượt hạn mức này hoặc các khách hàng chưa có hạn mức thì đều phải qua bộ phận quản lý rủi ro.
Bộ phận quản lý rủi ro còn được tham gia vào Hội đồng tín dụng. Các ngân hàng đều quy định mọi cấp hội đồng tư vấn tín dụng phải có thành viên từ bộ phận rủi ro và các thành viên phải chiếm một nửa số thành viên của hội đồng này.
Hệ thống GHTD: Có nhiều loại giới hạn được sử dụng, với mỗi khách hàng, ngân hàng áp dụng một giới hạn rủi ro tổng thể. Dưới mức rủi ro tổng thể này có hạn mức chia theo loại sản phẩm hoặc giao dịch cho vay, bảo lãnh, phát hành thư tín dụng... Để đảm bảo quản lý tổng thể và linh hoạt, việc xây dựng giới hạn này tuân theo nguyên tắc: “Mọi giới hạn giao dịch đều không vượt quá giới hạn tổng nhưng tổng các giới hạn sản phẩm lại luôn lớn hơn hoặc bằng hạn mức tổng thể.”
3.3.3 Ngân hàng KasiKorn của Thái Lan
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997-1998 khiến hệ thống ngân hàng Thái Lan chao đảo, nhiều NHTM bị phá sản hoặc phải sáp nhập để tiếp tục tồn tại. Tình hình đó buộc các ngân hàng phải xem lại toàn bộ chính sách, cách thức, quy trình trong hoạt động ngân hàng, nhất là lĩnh vực tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro. Để giải quyết bài toán này, một loạt thay đổi cơ bản trong tín dụng đã được các ngân hàng Thái Lan triển khai nhanh chóng và triệu để. Trong đó phải kể đến kinh nghiệm quản trị RRTD quý báu của KasiKorn Bank.
Ngân hàng đã tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc trong tín dụng. Trước đây, Kasikorn bank chỉ quan tâm đến TSTC, không quan tâm đến dòng
tiền mà dự án mang lại của khách hàng vay nên giai đoạn 1997-1999 nợ xấu có lúc lên tới 40%. Hiện nay ngân hàng đã thực hiện triệt để nguyên tắc tín dụng, đặc biệt là thông tin tín dụng. Khi khách hàng đến vay vốn, các cán bộ ngân hàng phải xem xét những vấn đề sau mới quyết định cho vay: Tư cách của người vay, có tin tưởng được họ không? Hiệu quả kinh doanh của khách hàng, hoạt động nào thành công, hoạt động nào không thành công? Mục đích của khoản vay là gì? Nguồn trả nợ là gì? (dòng tiền và khả năng trả nợ); ngân hàng có kiểm soát được khách hàng sử dụng tiền vay không? Khách hàng có năng lực, kiến thức về quản trị, điều hành doanh nghiệp không? Tình hình tài chính của khách hàng?
Để tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên thì ngân hàng phải phân tích tài chính, trong đó rất coi trọng đến vòng chu chuyển dòng tiền và vòng hồi thu vốn đầu tư của khách hàng.
Cho điểm khách hàng: KasiKorn Bank đã áp dụng xếp loại tín dụng như là một công cụ quyết định tự động đối với các khoản vay tiêu dùng (thẻ tín dụng), cho vay cầm cố, thế chấp, cho vay cá nhân, cho vay doanh nghiệp nhỏ.
Tuân thủ quyền phán quyết tín dụng: Kasikorn Bank quy định việc quyết định tín dụng theo mức tăng dần từ mức phán quyết của một người đến một nhóm người và cao nhất là của Hội đồng quản trị, cụ thể: 10 triệu bath: 1 người chịu trách nhiệm; 100 triệu bath: 2 người chịu trách nhiệm; 3 tỷ bath: do Hội đồng quản trị quyết định. Những khoản vay vượt quá hạn mức quy định trên phải chuyển cho bộ phận thẩm định độc lập để thẩm định trước khi trình lên cấp có thẩm quyền phê duyệt khoản vay.
Giám sát khoản vay: Sau khi cho vay, KasiKorn Bank rất coi trọng việc kiểm tra, giám sát các khoán vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin về khách hàng, thường xuyên giám sát và đánh giá khách hàng, xử lý kịp thời các tình huống RRTD.
Ngoài ra, KasiKorn Bank coi trọng việc cập nhật hiểu biết, liên tục đào tạo cho nhân viên ngân hàng nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng độc lập thực thi nhiệm vụ được phân công; đều áp dụng sổ tay tín dụng và có chính sách cho vay riêng đối với bất động sản là lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.