3.3.4 Bài học kinh nghiệm rút ra cho NHCT Việt Nam
Công việc quản trị RRTD ngày càng trở nên cần thiết đối với các NHTM trong quá trình hội nhập với thế giới và phát triển bền vững. Quản trị RRTD không đơn thuần chỉ là xử lý nợ xấu mà còn bao gồm nhiều vấn đề như phòng ngừa, kiểm soát rủi ro... Từ kinh nghiệm quản trị rủi ro của ba ngân hàng trên, bài học kinh nghiệm rút ra cho các NHTM Việt Nam trong đó có NHCT là:
Thứ nhất, NHCT phải nâng cao hiệu quả và tính minh bạch của quản lý tín dụng, cụ thể là xây dựng các thực hành tín dụng mới từ khâu hậu kiểm, tư vấn cho đến ra quyết định, đồng thời quản lý khoản vay dựa trên hệ thống phân tích và rà soát tín dụng. NHCT cũng nên xây dựng một hệ thống đánh giá tín dụng dựa trên các tiêu chí tương lai thay vì dựa quá nhiều vào kết quả hoạt động trong quá khứ như trước đây, đồng thời đưa vào triển khai đồng bộ hệ thống cảnh báo sớm các khoản vay có vấn đề.
Thứ hai, NHCT cần chú ý hơn đến việc phân quyền phán quyết tín dụng nhằm tiết kiệm thời gian cũng như tăng tính trách nhiệm đối với CBTD về quyền quyết định của mình, phát huy tính sáng tạo, chủ động trong cho vay của họ.
Thứ ba, NHCT thường xuyên tiến hành rà soát, báo cáo và kiểm soát rủi ro. Ngân hàng cần chú trọng đến việc nâng cao quản trị hệ thống và tránh các rủi ro tiềm ẩn bằng cách rà soát đều đặn các rủi ro chính như tín dụng, lãi suất, thanh khoản, thị trường sao cho các rủi ro này không vượt quá mức chấp nhận được. Bên cạnh đó, NHCT tiếp tục hoàn thiện Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và hàng tháng phân tích các biến động về khối lượng rủi ro cho từng ngành cũng như doanh nghiệp nhằm đảm bảo không vượt quá các hạn mức đã xây dựng, từ đó duy trì nhất quán khẩu vị rủi ro của ngân hàng.
3.3 Giải pháp tăng cường quản trị RRTD tại NHCT Việt Nam
3.3.1 Nhóm giải pháp trực tiếp
3.3.1.1 Thực hiện đúng quy trình tín dụng
Thực hiện đúng quy trình tín dụng, đủ các bước trong quy trình trên cơ sở tuân thủ các quy tắc cho vay sẽ giúp ngân hàng giảm được rủi ro đạo đức, hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra. Các CBTD nếu thực hiện đúng quy trình cho vay thì có
Có thể bạn quan tâm!
- Chỉ Tiêu Hệ Số Sử Dụng Vốn Của Nhct Giai Đoạn 2010-2013
- Đánh Giá Chung Về Hoạt Động Quản Trị Rrtd Của Nhct
- Định Hướng Công Tác Quản Trị Rrtd Của Nhct Trong Thời Gian Tới
- Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam VietinBank - 11
- Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam VietinBank - 12
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
thể đánh giá được khả năng xảy ra rủi ro của khách hàng và khoản vay đó, từ đó có biện pháp để lường trước khi rủi ro xảy ra.
Rút kinh nghiệm từ vụ án Huyền Như, NHCT nên thận trọng đối với loại hình cho vay có TSĐB là tiền gửi tiết kiệm, khi duyệt cho vay phải có mặt của chủ thể vay vốn hoặc người bảo lãnh để tránh trường hợp cán bộ ngân hàng giả mạo chữ kí khách hàng đem tiền gửi tiết kiệm của khách hàng làm TSĐB vay vốn ngân hàng, để rồi khi khoản vay ấy có vấn đề thì người chịu thiệt thòi lại chính là khách hàng và NHCT sẽ dần mất đi uy tín của mình.
3.3.1.2 Hoàn thiện mô hình phê duyệt tín dụng tập trung
Nhằm đẩy nhanh tốc độ phê duyệt tín dụng sao cho đảm bảo chất lượng phục vụ của hoạt động tín dụng, đồng thời tăng sức mạnh cạnh tranh mà vẫn đảm bảo kiểm soát được rủi ro, tính chuyên nghiệp và tính độc lập giữa các khâu phát triển khách hàng, thẩm định cấp tín dụng và phê duyệt tín dụng, NHCT cần xây dựng và triển khai các bộ phận Tái thẩm định theo các Vùng kinh doanh, các Trung tâm Tái thẩm định theo Miền nhằm theo kịp sự phát triển của mạng lưới và hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Tái thẩm định Vùng là bộ phận tái thẩm định và đề xuất cấp tín dụng trình Giám đốc Vùng và/hoặc các cá nhân được giao trách nhiệm phê duyệt tín dụng của Vùng xem xét, phê duyệt trong phạm vi thẩm quyền được giao.
Các Trung tâm Tái thẩm định Miền (Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam) là cơ quan tái thẩm định và đề xuất cấp tín dụng trình Giám đốc/Phó Giám đốc Khối quản lý tín dụng, Hội đồng tín dụng, Tổng Giám đốc và Ủy ban tín dụng xem xét phê duyệt trong phạm vi hạn mức rủi ro được phân quyền.
3.3.1.3 Hoàn thiện công tác đo lường RRTD theo hướng lượng hóa rủi ro
NHCT đang triển khai hệ thống đo lường RRTD theo phương pháp thống kê và bước đầu tính toán các chỉ số PD, LGD, EL để xác định tổn thất dự kiến EL. Ngân hàng nên tiếp tục tính toán, đo lường tổn thất ngoài dự kiến UL:
EL = PD × LGD × EAD
UL = độ lệch chuẩn của EL = Φ = LGD × EAD √
UL mới thực sự là thước đo RRTD. Còn EL chỉ phản ánh “chi phí kinh doanh” trung bình mà mọi ngân hàng đều phải trải qua. Và khi chi phí đó là có thể
dự đoán được và đã được bù đắp bằng dự phòng rủi ro thì nó mới không còn gây rủi ro cho ngân hàng nữa.
Một khi các thước đo RRTD là EL và UL được lượng hóa thì ngân hàng sẽ có cơ sở để xác định lãi suất cho vay theo đúng phương châm “rủi ro cao - lợi nhuận cao”, “rủi ro thấp - lợi nhuận thấp” qua cơ chế tính giá bù đắp rủi ro như sau:
Sơ đồ 3.3: Định giá khoản vay trong mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ
Lãi
suất
Chi phí vốn (bù đắp tổn thất
ngoài dự kiến)
Tính toán vốn cần thiết cho
mỗi giao dịch
Chi phí rủi ro (bù đắp tổn thất
dự kiến)
PD × LGD × EAD
Chi phí hoạt - Phân bổ chi phí hoạt động động + Chi phí của các hoạt động kinh doanh huy động vốn - Tính toán chi phí huy động
vốn cho mỗi thời kỳ
Cao
Chất lượng tín dụng
Thấp
Nguồn: Theo Basel II
3.
Với cách tính giá như trên, NHCT sẽ phòng tránh được việc cho vay không bù đắp được rủi ro, từ đó sàng lọc ra các khách hàng mang lại lợi nhuận sau điều chỉnh rủi ro cao hơn co ngân hàng.
3.3.1.4 Kiểm tra và giám sát tín dụng chặt chẽ hơn
Để đảm bảo an toàn trong cho vay, tránh được những RRTD không đáng có CBTD cần thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh và thực hiện dự án của khách hàng để đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.
Thông qua việc theo dõi vay vốn, CBTD cần lưu ý khách hàng biết kì hạn trả nợ và đôn đốc thu xếp ngân quỹ để trả nợ ngân hàng đúng thời gian thoả thuận. Nếu khách hàng có khó khăn chính đáng không thể trả nợ đúng thời hạn thì CBTD hướng dẫn khách hàng lập giấy xin điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, còn nếu những khó khăn của khách hàng không phải do các nguyên nhân bên ngoài mà là do sự yếu kém của chính họ thì CBTD cần gợi ý, tư vấn cho họ các biện pháp để tháo gỡ khó khăn. Còn nếu khoản vay đã được xác định là “có vấn đề” dù đang còn trong hạn, CBTD cần chuyển khoản vay bộ phận xử lý rủi ro cao để có phương án điều chỉnh khoản vay về trạng thái bình thường trước khi hết hạn.
3.3.1.5 Thường xuyên đánh giá lại giá trị TSĐB
Như trên đã nêu, NHCT cho vay với TSĐB của khách hàng phần lớn là bất động sản và động sản mà khoản giá trị TSĐB là giá trị ghi nhận theo sổ sách tại thời điểm khách hàng thế chấp để vay vốn. Vì vậy, sau khi cấp phát tín dụng, NHCT cần quản lý và theo dõi TSĐB về vấn đề sử dụng, bảo quản cũng như trị giá của TSĐB biến động trong suốt thời gian của khoản tín dụng. Lúc này, công tác định kỳ tái định giá TSĐB đóng vai trò hết sức quan trọng.
Việc thường xuyên tái định giá TSĐB giúp ngân hàng có khả năng nắm rõ giá trị tài sản, tính thanh khoản của tài sản, thời gian thanh lý tài sản để trả nợ vay ngân hàng. Bởi trên thực tế có những bất động sản thế chấp ngân hàng có giá tri rất cao nhưng tính thanh khoản trong từng thời điểm lại kém vì không phải ai cũng có đủ tiền để mua hoặc nhu cầu trong thời điểm hiện tại đối với tài sản đó rất thấp.
Đối với TSTC có tài sản gắn liền với đất thì việc tái định giá lại tài sản chính là cơ hội để ngân hàng xác định rõ được tài sản này thuộc quyền sở hữu của ai, ai là người đang quản lý và sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất? Mục đích của thẩm định tài sản là để xác định giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản gắn liền với đất làm cơ sở thỏa thuận lại với khách hàng, làm căn cứ khi xử lý TSĐB.
Công tác tái định giá TSTC giúp ngân hàng tránh nhiều trường hợp TSĐB đã được thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm, nhưng ngân hàng vẫn không thu hồi được vốn do hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh bị tòa án xác định vô hiệu theo quy định của pháp luật. Cuối cùng, khi ngân hàng phát hiện ra sụt giảm về giá trị của TSĐB thì ngân hàng hoàn toàn có thể thông báo với khách hàng để khách hàng có thể trả trước một phần nợ hoặc đưa thêm TSĐB khác bằng với giá trị sụt giảm của TSĐB ban đầu.
3.3.1.6 Ứng dụng các nghiệp vụ phái sinh để hạn chế RRTD Công cụ thứ nhất: Hợp đồng quyền chọn tín dụng
Hợp đồng quyền chọn tín dụng là công cụ bảo vệ giúp ngân hàng bù đắp những tổn thất trong giá trị tài sản tín dụng nhằm bù đắp mức vốn cao hơn khi chất lượng tín dụng giảm sút. Nếu ngân hàng lo ngại về chất lượng tín dụng của khoản vay giá trị lớn vừa mới kí kết thì ngân hàng có thể kí hợp đồng quyền chọn tín dụng với một số tổ chức kinh doanh quyền chọn. Hợp đồng này sẽ đồng ý thanh toán toàn
bộ khoản vay nếu như khoản vay này giảm giá hoặc không thể thanh toán đúng hạn. Nếu khách hàng vay vốn hoàn trả nợ đúng như kế hoạch thì ngân hàng có thể không thực hiện quyền chọn và chịu mất một khoản nhỏ phí quyền chọn.
Công cụ thứ hai: Hợp đồng quyền chọn trái phiếu
Ngân hàng thường sử dụng công cụ này trong trường hợp nền kinh tế khó khăn gây bất lợi cho các khoản vay. Nguyên lí là lấy lãi ngoại bảng từ hợp đồng quyền chọn để bù đắp thua lỗ nội bảng.
Công cụ thứ ba: Hoán đổi tổng thu nhập
Người bán khoản vay (người mua bảo hiểm) chi trả dựa vào thu nhập có từ việc nắm giữ một khoản nợ nhiều rủi ro. Tổng thu nhập của các khoản nợ nhiều rủi ro bằng thu nhập lãi suất và những thay đổi về giá trị thị trường của khoản nợ đó. Bên thụ hưởng trong tổng thu nhập trả liên dựa vào thu nhập của một trái phiếu không chịu rủi ro vỡ nợ trừ đi khoản đền bù nhận được do chịu sự rủi ro của bên mua bảo hiểm. Kết quả là người mua bảo hiểm nhận được dòng thu nhập tương xứng của việc nắm giữ khoản nợ đầy rủi ro.
Công cụ thứ tư: Hoán đổi tín dụng
Người bán khoán vay đối với RRTD bằng cách chi trả các khoản thanh toán định kì theo một tỷ lệ phần trăm cố định trên giá trị các khoản tín dụng. Nếu RRTD dự kiến xảy ra (người vay vỡ nợ) thì người bán bảo hiểm sẽ phải chi trả một khoản thanh toán để bù đắp rủi ro cho phần tín dụng tổn thất ấy. Ngược lại, người bán bảo hiểm không phải trả khoản nào khác.
3.3.1.7 Xây dựng chiến lược về con người phù hợp với yêu cầu quản trị RRTD trong điều kiện mới
Tuyển dụng nghiêm ngặt và tiêu chuẩn hóa cán bộ
Tuyển dụng là bước đầu tiên và ảnh hưởng lớn nhất trong chiến lược về con người, vì nếu tuyển dụng không đạt yêu cầu thì ngân hàng có thể bỏ lỡ những nhân tài và tuyển những người năng lực yếu kém gây mất nhiều thời gian và tốn kém cho chi phí đào tạo. Công tác tuyển dụng ở NHCT cần được thực hiện chặt chẽ hơn theo các tiêu chí như: được đào tạo chính quy tại các trường đại học có uy tín, thành thạo ngoại ngữ và tin học, có sức khỏe và phẩm chất đạo đức tốt, có hiểu biết về xã hội và khả năng giao tiếp xã hội.
Đổi mới công tác đào tạo cán bộ của NHCT
Hiện nay, NHCT mới chỉ chú trọng đào tạo nâng cao (đại học tại chức, cao học) mà chưa có phương án đào tạo lại. Diễn biến hoạt động ngân hàng thay đổi không ngừng, những kiến thức đã học ở trường đại học, cao đẳng có thể bị mai một hoặc không còn phù hợp nữa. Do đó NHCT có thể tổ chức các khóa ngắn hạn tại chỗ để các cán bộ tiếp thu những kiến thức mới. Song song với việc tổ chức các khóa đào tạo cán bộ, NHCT cần khuyến khích các cán bộ tự học, tự trau dồi thêm kiến thức để nâng cao nghiệp vụ của mình.
Đổi mới việc đánh giá cán bộ và bố trí công việc cho cán bộ
Việc đánh giá cán bộ là rất hệ trọng và phức tạp đòi hỏi phải có một sự nhìn nhận đúng đắn và khách quan, từ đó mới có thể bố trí sử dụng cán bộ, nhất là CBTD. Sử dụng đúng người, đúng việc là yếu tố đầu tiên liên quan tới việc thành hay bại của Ngân hàng. Vì thế, muốn đánh giá đúng phải có phương pháp khoa học và khách quan dựa trên cơ sở: (i) Phải nắm vững và dựa vào các tiêu chuẩn cán bộ nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng; (ii) Phải lấy hiệu quả công tác và sự đóng góp thực tế làm thước đo phẩm chất năng lực cán bộ chứ không nên đề cao bằng cấp học vị.
Thực hiện tốt chế độ lương thưởng và giảm áp lực cho CBTD
Nếu NHCT có chế độ lương thưởng hợp lý thì các CBTD và cán bộ quản trị RRTD sẽ chuyên tâm hơn vào công việc của mình và cống hiến hết mình cho ngân hàng. Thực trạng chung hiện nay là các ngân hàng, không riêng NHCT, đều áp doanh số huy động và cho vay khá cao đối với các cán bộ ngân hàng, nên không ít cán bộ chạy theo doanh số để hoàn thành chỉ tiêu, dẫn đến chất lượng tín dụng giảm sút và ngân hàng phải chịu rủi ro. Vì vậy, NHCT cần có chỉ tiêu doanh số đúng đắn hơn để không bị tác dụng ngược từ việc tăng trưởng tín dụng cao mà chất lượng tín dụng thấp.
Một CBTD quản lý 200 - 300 khách hàng là quá nhiều, như vậy việc kiểm soát khoản vay sẽ không được chặt chẽ và hiệu quả. Do đó, NHCT cần giảm tải số khách hàng cho các CBTD bằng cách tuyển dụng và đào tạo thêm cán bộ mới.
Thường xuyên giám sát, nghiêm khắc sa thải các cán bộ quá yếu kém về nghiệp vụ hoặc suy thoái đạo đức
Ngân hàng nên mạnh tay loại bỏ những cán bộ làm việc không hiệu quả và gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngân hàng. Trong những năm gần đây ngành tài chính - ngân hàng được nhiều người theo học và hiện đang dư thừa nhân lực, vì vậy ngân hàng có nhiều sự lựa chọn hơn, tuyển dụng các cán bộ mới để thay thế các cán bộ yếu kém về chuyên môn và đạo đức. Tuy rằng việc biến động nhân sự có thể gây tâm lí lo ngại cho những người có ý định làm việc và đang làm việc tại NHCT, song chỉ cần thực hiện việc tái cơ cấu nhân sự nghiêm túc thì chỉ trong vài năm NHCT sẽ thanh lọc và giữ lại được các hạt nhân tốt, bổ sung những cán bộ mới phù hợp với ngân hàng, góp phần làm trong sạch môi trường kinh doanh của ngân hàng, thúc đẩy phát triển tín dụng và kiểm soát RRTD hiệu quả.
3.3.2 Nhóm giải pháp hạn chế thiệt hại khi RRTD xảy ra
3.3.2.1 Phát hiện sớm các dấu hiệu không bình thường của các khoản vay có thể dẫn tới NQH
Nếu các khoản tín dụng được hoàn trả theo cách thanh lý các tài sản thế chấp thì ngân hàng chẳng khác gì “tiệm cầm đồ”. Vì vậy, hầu hết các ngân hàng luôn mong khách hàng của mình đầu tư vốn một cách đúng đắn và trả nợ đầy đủ. Do đó, sau khi cấp tín dụng NHCT cần phải theo dõi, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay của khách hàng. Nếu phát hiện những biểu hiện bất thường sau đây thì ngân hàng phải tìm biện pháp diều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời:
- Trì hoãn nộp các báo cáo tài chính cho ngân hàng.
- Chậm chễ, thiếu thiện chí trong mối quan hệ tin cậy và hợp tác với ngân hàng.
- Số dư tiền gửi giảm sút, xuất hiện séc rút tiền quá số dư hoặc séc thanh toán bị trả lại.
- Có sự gia tăng thất thường hàng tồn kho, các khoản bán chịu chưa thu hồi được tiền hoặc có sự gia tăng các khoản nợ chưa thanh toán.
- Hoàn trả nợ vay của ngân hàng chậm hoặc quá kỳ hạn, không đầy đủ như cam kết.
- Gia tăng các tài sản cố định qua việc sáp nhập hoặc mua lại các doanh nghiệp khác.
74
- Có sự thay đổi trong ban lãnh đạo doanh nghiệp , sự thay người từ chức hoặc bỏ trốn…
- Doanh nghiệp gặp các khó khăn về tổ chức, lao động như: đình công bãi công…
- Sự thay đổi chế độ tài chính trong doanh nghiệp, có sự sáp nhập hay giải thể
- Các thảm hoạ thiên tai như bão lụt hoả hoạn…hoặc mất trộm, tham ô…
3.3.2.2 Xử lý nợ xấu trước khi Thông tư số 02/2013/TT-NHNN được áp dụng.
Thông tư 02 yêu cầu rất cao về chất lượng tín dụng, nếu áp dụng sẽ làm nợ xấu của NHCT tăng cao. Trước đây, khoản vay doanh nghiệp không trả được lãi khi đến hạn, khoản vay gốc sẽ chuyển thành NQH. Nhưng theo Thông tư 02 cả gốc lẫn lãi không trả được đều chuyển thành NQH. Mặc dù Thông tư 09 đã giúp các quy định trong Thông tư 02 trở nên “mềm mại” hơn, thời gian áp dụng Thông tư 02 cũng được hoãn lại 1 năm, song lộ trình đổi mới phương pháp phân loại, cơ cấu nợ vẫn sẽ tiến hành trong tương gần để theo kịp chuẩn mực thế giới. Nợ xấu tăng kéo theo hệ lụy là trích lập dự phòng tăng, ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Đồng thời, với một số doanh nghiệp được cơ cấu lại nợ, NHCT vẫn chưa dám cho vay mới, nên khi Thông tư 02 áp dụng chắc chắn NHCT sẽ phải thắt chặt hầu bao hơn nữa để tránh phát sinh nợ xấu và như vậy tín dụng ra nền kinh tế sẽ eo hẹp hơn.
Trước áp lực đó, từ đầu năm 2013 đến nay, các NHTM ráo riết tự xử lý nợ xấu, như cơ cấu lại các khoản nợ theo Quyết định 780 về trích lập dự phòng rủi ro; xử lý các khoản vay quá hạn có TSĐB và bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản các TCTD Việt Nam (VAMC). Nguồn nợ xấu đó bán đi được hạch toán ra ngoại bảng để theo dõi, TCTD lại được nguồn tiền về và có thể cho vay được chính doanh nghiệp có nợ xấu. Lẽ ra khoản nợ xấu đó đã đóng băng, ngân hàng không thu lại được đồng nào, nhưng giờ đây lại có thêm nguồn vốn giá rẻ. Đây là giải pháp rất tốt không chỉ với NHCT nói riêng mà với cả doanh nghiệp, các TCTD khác và nền kinh tế.
Tuy nhiên, NHCT vẫn cần cân nhắc kĩ. VAMC chỉ mới tiến hành mua nợ theo giá trị sổ sách, tức xử lý nợ xấu chưa đi vào thực chất mà mới thực hiện trên danh nghĩa. Khi bán nợ cho VAMC, bảng tài sản của NH giảm bớt nợ xấu, nhưng