Một Số Chỉ Tiêu Hiệu Quả Kinh Doanh Lĩnh Vực Hoạt Động

động kinh tế của mình mà trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch bằng mọi giá.

Hoạt động kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.

Trong cơ chế kinh tế thị trường, việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai dựa trên quan hệ cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp phải tự ra các quyết định kinh doanh của mình, tự hạch toán lỗ lãi, lãi nhiều hưởng nhiều, lãi ít hưởng ít, không có lại sẽ đi đến phá sản. Lúc này, mục tiêu lợi nhuận trở thành một trong những mục tiêu quan trọng nhất, mang tính chất sống còn của sản xuất kinh doanh.

Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Môi trường cạnh tranh này ngày càng gay gắt, trong cuộc cạnh tranh đó có nhiều doanh nghiệp trụ vững, phát triển sản xuất, nhưng không ít doanh nghiệp đã thua lỗ, giải thể, phá sản. Để có thể trụ lại trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín... nhằm tới mục tiêu tối đa lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải có được lợi nhuận và đạt được lợi nhuận càng cao càng tốt. Do vậy, đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề được quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.

8.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH

8.2.1. Các nhân tố bên trong

8.2.1.1. Lực lượng lao động

Trong sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động của doanh nghiệp sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp có thể bán được tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh doanh vì vậy lượng lao động tác động trực tiếp đến năng suất lao động, trình độ sử dụng các nguồn lực khác nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.

Ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức là hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm dịch vụ rất cao. Đòi hỏi lực lượng lao động phải là lực lượng rất tinh nhuệ, có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Điều này càng khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.

8.2.1.2. Cơ sở vật chất – khoa học kỹ thuật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 219 trang tài liệu này.

Ngày nay, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng, chu kỳ công nghệ ngày càng ngắn hơn và ngày càng hiện đại hơn, đóng vai trò to lớn mang tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm ra giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động làm chủ công nghệ kỹ thuật hiện đại để tiến tới chỗ ứng dụng kỹ thuật ngày càng tiên tiến, sáng tạo công nghệ kỹ thuật mới… làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

8.2.1.3. Nhân tố quản trị

Quản trị doanh nghiệp - 25

Trong quá trình kinh doanh, nhà quản trị khai thác và thực hiện phân bổ các nguồn lực sản xuất. Chất lượng của hoạt động này cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của mỗi thời kỳ.

Bằng phẩm chất và tài năng của mình, đội ngũ các nhà quản trị mà đặc biệt là các nhà quản trị cao cấp có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng có tính quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp. Kết quả và hiệu quả của hoạt động của quản trị doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp, việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, cá nhân và thiết lập các mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức đó.

8.2.1.4. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là của công nghệ thông tin đã thúc đẩy và đòi hỏi mỗi nước bắt tay xây dựng nền kinh tế tri thức. Một trong các đòi hỏi của việc xây dựng nền kinh tế tri thức là các hoạt động kinh doanh phải dựa trên cơ sở sự phát triển của công nghệ tin học. Nhu cầu về thông tin của doanh nghiệp đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ hệ thống thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó đặc biệt là hệ thống thông tin nối mạng trong nước và quốc tế.

Tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bộ vừa đáp ứng nhu cầu thông tin kinh doanh lại vừa đảm bảo giảm thiểu chi phí kinh doanh cho quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và sử dụng thông tin. Do nhu cầu thông tin ngày càng lớn nên nhiệm vụ này cũng là nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quản trị doanh nghiệp hiện nay. Phù hợp với xu thế phát triển hệ thống thông tin nội bộ phải là hệ thống thông tin nối mạng cục bộ, mạng trong nước và quốc tế.

8.2.1.5 Nhân tố tính toán

Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và hao phí nguồn lực để đạt được kết quả đó. Cả hai đại lượng kết quả và hao phí nguồn lực của mỗi thời kỳ cụ thể đều khó đánh giá một cách thật chính xác.

Nếu xét trên phương diện giá trị và sử dụng lợi nhuận là kết quả, chi phí là cái phải bỏ ra thì: Pr = TR – TC

Vì lý do có hai loại chi phí là chi phí tính toán (những chi phí được trên sổ sách chứng từ) và chi phí kinh tế (bao gồm cả chi phí tính toán và chi phí cơ hội) nên lợi nhuận cũng phân ra thành hai loại lợi nhuận, nhưng lợi nhuận kinh tế mới là lợi nhuận “thực” của kết quả kinh doanh. Tuy nhiên việc xác định lợi nhuận lại chưa tính toán được lợi nhuận kinh tế một cách chính xác mà chỉ tính được lợi nhuận tính toán. Đây chính là lý do mà phạm trù hiệu quả được hiểu mới chỉ gắn với chi phí kinh doanh hay lợi nhuận tính toán. Chỉ khi nào triển khai quản trị chi phí kinh doanh, khi đó doanh nghiệp mới có thể tính được hiệu quả kinh doanh tiếp cận với độ chính xác cần thiết.

8.2.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài

8.2.2.1. Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật ,… Mọi quy định pháp luật về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động kinh doanh, vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô đảm bảo tính bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh theo hướng mang đến lợi ích cho tất cả các bên tham gia và cho các thành viên trong xã hội.

Doanh nghiệp có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật, kinh doanh trên thị trường quốc tế doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành các hoạt động kinh doanh trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nước đó.

Ngược lại, nếu môi trường pháp lý không minh bạch rò rang sẽ làm cho cá doanh nghiệp có nguy cơ vi phạm, gian lận trong kinh doanh … có thể dẫn đến những thiệt hại rất lớn về kinh tế và làm xói mòn đạo đức xã hội.

8.2.2.2. Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế là nhân tố bên ngoài tác động lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Trước hết phải kể đến các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu… Các chính sách kinh tế vĩ mô này tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể do tác động trực tiếp đến kết quả và hiệt quả kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc từng ngành, từng vùng kinh tế nhất định

8.2.2.3. Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng

Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước… cũng như sạ phát triển của giáo dục và đào tạo,… đều là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh ở khu vực có cơ sở hạ tầng thuận lợi đầy đủ sẽ có nhiều điều kiện

thuận lợi để phát triển sản xuất, tăng tốc độ tiêu thụ, tăng doanh thu, giảm chi phí… nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, nếu ở các vùng sâu, vùng xa biên giới, hải đảo,..không đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến chi phí tăng làm cho hiệu quả kinh tế không đạt được như mong muốn.

8.3. TIÊU CHUẨN VÀ CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH DOANH

8.3.1. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh

Từ công thức xác định hiệu quả kinh doanh chung sẽ luôn xác lập được một chuỗi các giá trị có thể của kết quả/chi phí kinh doanh. Nếu xem xét các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh cụ thể thì với mỗi chỉ tiêu cũng đều xác lập được một chuỗi các giá trị có thể. Vấn đề được đặt ra là ccs giá trị này đã phản ánh tính hiệu quả kinh doanh ở mức độ nào? Còn các giá trị khác, khi nào có và khi nào không có hiệu quả? Cùng với sự phát triển của xã hội, các chỉ tiêu hiệu quả cũng có thể tăng thêm hoặc giảm đi, tùy theo tính chất của từng loại chỉ tiêu. Khi nó giảm không đồng nghĩa là không có hiệu quả. Chính vì vậy, phải nghiên cứu phạm trù tiêu chuẩn hiệu quả.

Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là “mốc” xác định ranh giới có hay không có hiệu quả. Như thê, trước hết cần xác định được tiêu chuẩn hiệu quả cho mỗi chỉ tiêu để phân biệt “mức” có hay không có hiệu quả.

Việc xác định “mốc” làm cơ sở kết luận tính hiệu quả là không có công thức chung. Mỗi loại chỉ tiêu hiệu quả sẽ có cách thức xác định tiêu chuẩn riêng. Nếu theo phương pháp so sánh toàn ngành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của ngành làm tiêu chuẩn hiệu quả. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp chỉ đạt được hiệu quả nếu giá trị đạt được ứng với một chỉ tiêu cụ thể xác định không thấp hơn giá trị bình quân của ngành.

Nếu trong ngành có sự khác biệt lớn về trình độ phát triển, thị trường hoặc đặc điểm hoạt động kinh doanh giữa các doanh nghiệp hoặc các nhóm doanh nghiệp thì tiêu chuẩn hiệu quả được xác định riêng cho từng nhóm đối thủ cạnh tranh đối đầu có cùng đặc điểm sẽ phù hợp hơn. Lúc này tiêu chuẩn hiệu quả có thể là mức của đối thủ cạnh tranh trực tiếp hoặc đối thủ cạnh tranh cùng tiềm lực. Cũng có thể lấy mức bình quân của ngành, quốc gia, khu vực, thế giới làm tiêu chuẩn hoặc mức thiết kế, phương án sản xuất kinh doanh trong các luận chứng kinh tế kỹ thuật làm tiêu chuẩn so sánh.

8.3.2. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh

8.3.2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp

a. Các chỉ tiêu theo doanh lợi

Xét trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn quản trị kinh doanh, các nhà kinh tế cũng như các nhà quản trị hoạt động kinh doanh thực tế ở các doanh nghiệp và các nhà tài trợ khi xem xét hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đều quan tâm trước hết đến việc tính toán đánh giá chỉ tiêu chung phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp.

Vì chỉ tiêu doanh lợi được đánh giá cho hai loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp: toàn bộ vốn kinh doanh bao gồm cả vốn tự có và vốn đi vay và chỉ tính cho vốn tự có của doanh nghiệp nên sẽ có hai chỉ tiêu phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này được coi là các chỉ tiêu phản ánh sức sinh lời của số vốn kinh doanh, khẳng định mức độ đạt hiệu quả kinh doanh của toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp sử dụng nói chung cũng như hiệu quả sử dụng số vốn tự có của doanh nghiệp nói riêng.

- Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh:

DVKD (%) = PrR + TLVV x 100/VKD

VKD

Trong đó: D là doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh

PrR là lãi ròng ;

TLVV là lãi trả vốn vay

KD

V là tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.

Đối với các doanh nghiệp nhà nước, theo quy định của bộ tài chính còn cần phải tính chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước.

DVNN (%) = PrR x 100/VNN

VNN

Trong đó: D

NN

V

là doanh lợi của toàn bộ vốn nhà nước

là tổng vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp.

- Doanh lợi của vốn tự có:

DVTC (%) = PrR x 100/VTC

VTC

Trong đó: D

TC

V

là doanh lợi của toàn bộ vốn nhà nước

là tổng vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp.

- Ngoài ra, cũng thuộc chỉ tiêu doanh lợi còn có thể sử dụng chỉ tiêu doanh lợi của doanh thu bán hàng, chỉ tiêu này được xác định như sau:

DTR (%) = PrR x 100/TR

Trong đó: DTR là doanh lợi của doanh thu trong một thời kỳ nhất định.

TR là doanh thu trong thời kỳ đó.

b. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo chi phí

Do có nhiều quan niệm khác nhau về công thức tính định nghĩa hiệu quả kinh tế nên ở phương diện lý thuyết cũng như thực tế cũng có thể có nhiều cách biểu hiện cụ thể khác nhau, có thể sử dụng hai công thức đánh giá hiệu quả phản ánh tính hiệu quả xét trên phương diện giá trị dưới đây:

- Tính hiệu quả kinh doanh (H) (theo chi phí kinh doanh ) HCPKD (%) = TR x 100/TCKD

Trong đó: HCPKD là hiệu quả kinh doanh tính theo chi phí kinh doanh.

TR là doanh thu trong kỳ.

TCKD là chi phí kinh doanh của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ

Ở công thức trên cần phải hiểu chi phí kinh doanh là chi phí xác định trong quản trị chi phí kinh doanh (kế toán quản trị) của doanh nghiệp. Chi phí kinh doanh không phải là chi phí tài chính (chi phí được xác định trong kế toán tài chính). Chi phí kinh doanh phải đạt là chi phí kinh doanh chi ra trong điều kiện thuận lợi nhất.

Công thức này được sử dụng rất nhiều trong phân tích, đánh giá tính hiệu quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và từng bộ phận kinh doanh nói riêng.

- Tính hiệu quả kinh doanh (H) (theo tiềm năng của một thời kỳ) HTN (%) = TCKDtt x 100/TCKDPĐ

Trong đó: HTN là hiệu quả kinh doanh tính theo tiềm năng.

TCKDtt là chi phí kinh doanh thực tế phát sinh trong kỳ. TCKDPĐ là chi phí kinh doanh phải đạt

Chi phí kinh doanh phải đạt của một thời kỳ xác định thường được xác định trên cơ sở các định mức tiên tiến (chi phí kinh doanh định mức) hoặc chi phí kinh doanh kế hoạch ở trong kỳ.

Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp được sử dụng đánh giá ở phạm vi toàn doanh ngiệp cũng như từng bộ phận bên trong doanh nghiệp. Các chỉ tiêu trên cũng được xác định dễ dàng đặc biệt ở các đơn vị bộ phận hạch toán độc lập.

Tiêu chuẩn hiệu quả tốt nhất của các chỉ tiêu trên là giá trị bình quân đạt được của ngành, của khu vực hay của quốc tế trong thời kỳ đánh giá.

8.3.2.2. Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động

Bên cạnh các chỉ tiêu hiệu quả tổng quát phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tư liệu sản xuất, nguyên, nhiên vật liệu, lao động, ... và tất nhiên bao hàm cả tác động của yếu tố quản trị đến việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố trên) thì người ta còn dùng các chỉ tiêu hiệu quả lĩnh vực hoạt động (chỉ tiêu bộ phận) để phân tích hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động, từng yếu tố sản xuất cụ thể.

Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận đảm nhiệm hai chức năng cơ bản sau:

- Phân tích có tính chất bổ sung cho chỉ tiêu tổng hợp để trong một số trường hợp kiểm tra và khẳng định rò hơn kết luận được rút ra từ các chỉ tiêu tổng hợp.

- Phân tích hiệu quả từng mặt hoạt động, hiệu quả sử dụng từng yếu tố sản xuất nhằm tìm biện pháp làm tối đa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp. Đây là chức năng chủ yếu của hệ thống chỉ tiêu này.

Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp và chỉ tiêu hiệu quả kinh tế bộ phận không phải là mối quan hệ cùng chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì

có thể có những chỉ tiêu bộ phận tăng lên và cũng có thể có chỉ tiêu bộ phận không đổi hoặc giảm. Vì vậy, cần chú ý là:

+ Chỉ có chỉ tiêu tổng hợp đánh giá được hiệu quả toàn diện và đại diện cho hiệu quả kinh doanh, còn các chỉ tiêu bộ phận không đảm nhiệm được chức năng đó.

+ Các chỉ tiêu bộ phận phản ánh hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động (bộ phận) nên thường được sử dụng trong thống kê, phân tích cụ thể chính xác mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, từng mặt hoạt động, từng bộ phận công tác đến hiệu quả kinh tế tổng hợp.

a. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh

Thực ra, muốn có các yếu tố đầu vào doanh nghiệp cần có vốn kinh doanh, nếu thiếu vốn mọi hoạt động của doanh nghiệp hoặc đình trệ hoặc kém hiệu quả. Do đó các nhà kinh tế cho rằng chỉ tiêu sử dụng vốn là một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Chỉ tiêu này đã được xác định thông qua công thức (2) và (3). Ở đây có thể đưa ra một số công thức được coi là để đánh giá hiệu quả sử dụng đồng vốn và từng bộ phận vốn của doanh nghiệp:

- Số vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh:

SVVKD = TR/VKD

Với SVVKD là số vòng quay của vốn. Số vòng quay vốn càng lớn hiệu suất sử dụng vốn càng lớn.

- Hiệu quả sử dụng vốn cố định (HTSCĐ):

HTSCĐ = PrR/ TSCĐG

Trong đó: HTSCĐ là hiệu suất sử dụng tài sản cố định TSCĐG là tổng giá trị tài sản cố định bình quân

Tổng giá trị TSCĐ bình quân là tổng giá trị của TSCĐ sau khi đã trừ đi phần hao mòn tài sản cố định tích lũy đến thời điểm lập báo cáo. Ngoài ra, trong những điều kiện nhất định còn có thể được cộng thêm những chi phí xây dựng dở dang. Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định biểu hiện một đồng tài sản cố định trong kỳ sản xuất ra bình quân bao nhiều đồng lãi, thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lợi của tài sản cố định.

Ngoài ra hiệu quả sử dụng tài sản cố định còn có thể được đánh giá theo phương pháp ngược lại chỉ tiêu nghịch đảo công thức trên và gọi là hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Chỉ tiêu nghịch đảo này cho biết để tạo ra một đồng lãi, doanh nghiệp cần phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn cố định.

Ngoài ra, còn đánh giá trên chỉ tiêu sức sản xuất của tài sản cố định:

SVTSCĐ = TR/ TSCĐG

Trong đó: SVTSCĐ là hiệu suất sử dụng tài sản cố định TR là doanh thu bán hàng

TSCĐG là tổng giá trị tài sản cố định bình quân

Nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể thấy các nguyên nhân của việc sử dụng vốn cố định không có hiệu quả thường là đầu tư tài sản cố định quá mức cần thiết, tài sản cố định không sử dụng chiếm tỉ trọng lớn, sử dụng tài sản cố định với công suất thấp hơn mức cho phép...

- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:

HVLĐ = PrR/V

Trong đó: HVLĐ là hiệu quả sử dụng vốn lưu động Vlà vốn lưu động bình quân trong năm.

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu lợi nhuận trong kỳ. Ngoài ra, hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được phản ánh gián tiếp qua số vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm (SVVLĐ) hoặc số ngày bình quân một vòng

luân chuyển vốn lưu động trong năm (SNLC):

SVVLĐ = TR/ V

Trong đó: SVVLĐ: số vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm

Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nghịch đảo của chỉ tiêu trên là chỉ số ngày bình quân của một kỳ luân chuyển vốn lưu động.

SNLC = 365/SVVLĐ = 365*V/TR

Trong đó: SNLC: số ngày bình quân của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động Tuy nhiên, các chỉ tiêu hiệu quả này cũng còn đang tiếp tục được tranh cãi.

- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động tính theo lợi nhuận:


HVLĐ =

PrR TR

X

TR V

Như vậy, nếu cố định chỉ tiêu tỷ trọng lợi nhuận trong vốn kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động tỷ lệ thuận với số vòng quay vốn lưu động. Số vòng quay vốn lưu động cao sẽ có thể đưa tới hiệu quả sử dụng vốn cao.

Trong các công thức trên, vốn lưu động bình quân là số trung bình của giá trị vốn lưu động ở thời điểm đầu kỳ và ở thời điểm cuối kỳ

- Hiệu quả vốn góp trong công ty cổ phần được xác định bởi tỉ suất lợi nhuận của vốn cổ phần (DVCP):

DVCP(%) = PrR/VCP

Trong đó: DVCP là tỷ suất lợi nhuận của vốn cổ phần và VCP là vốn cổ phần bình quân trong kỳ tính toán.

Chỉ tiêu này cho biết bỏ ra một đồng vốn cổ phần bình quân trong một thời kỳ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Vốn cổ phần bình quân trong kỳ được xác định theo công thức: VCP = SCP x GCP

Xem tất cả 219 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí