Tổng Hợp Các Dự Án Hoàn Thành Được Quyết Toán Và Chậm Quyết Toán Trên Địa Bàn Toàn Tỉnh


xã hội tham gia đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, đô thị hóa trên địa bàn tỉnh.

Đạt được những thành công trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, HĐND và UBND các cấp, các ngành với nhiều giải pháp công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật. Về cơ bản UBND tỉnh và các sở ban ngành liên quan đã thực thi và triển khai nhiều chính sách, văn bản pháp luật quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN của Trung ương một cách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Đây là cơ sở để cơ quan quản lý tỉnh ban hành các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện quản lý dự án XDCB trên địa bản tỉnh ngày càng tốt hơn, đồng thời ngăn chặn kịp thời các vi phạm xảy ra trong công tác quản lý.

Nhìn chung, công tác tuyên truyền pháp luật về đầu tư, về phòng chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm đã được triển khai rộng rãi đến mọi đối tượng với những nội dung thiết thực và hình thức phù hợp được các Bộ, ngành, các địa phương và các đơn vị liên quan đánh giá cao. Qua đó đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của các nhà thầu, chủ đầu tư, ban QLDA và các sở ban ngành liên quan.

Bên cạnh đó, việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính được thực hiện theo quy trình một cửa, giảm bớt các thủ tục hành chính không gây phiền hà, khó khăn, vướng mắc cho các đơn vị và nhà thầu.

Tỉnh đã tổ chức một số cuộc thanh tra, kiểm tra về tiến độ và chất lượng xây dựng các công trình trọng điểm. Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện và bổ sung những sai sót kịp thời để đẩy nhanh tiến độ thi công.

Tính đến thời điểm 1/11/2019 toàn tỉnh Bắc Giang có 4.425 doanh nghiệp đang hoạt động tăng 28,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó doanh nghiệp ngoài nhà nước có 4.117 doanh nghiệp, tăng 30,2% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 286 doanh nghiệp, tăng 10,9% doanh nghiệp nhà nước có 17 doanh nghiệp, giảm 4 doanh nghiệp so với năm 2018 do cổ phần hóa.


2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế

a. Hạn chế:

Một là, việc tham mưu trong công tác quy hoạch và Lập kế hoạch hiệu quả chưa cao

Chiến lược quy hoạch và các kế hoạch đầu tư còn thụ động do công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH luôn bị thay đổi, dẫn đến tình hình hoạch định mục tiêu đầu tư phải thay đổi và điều chỉnh theo. Năm 2012, Bắc Giang nằm trong quy hoạch vùng thủ đô. Từ đó quy hoạch phát triển KT-XH của Bắc Giang phải chỉnh sửa cho phù hợp với quy hoạch tổng thể của đất nước.

Một số quy hoạch ngành, sản phẩm chủ yếu còn thiếu, việc triển khai xây dựng quy hoạch chậm; chất lượng nhiều quy hoạch thấp; công tác dự báo còn thiếu tính sát thực, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Quy hoạch xây dựng các khu đô thị xây dựng chất lượng chưa cao, nhiều quy hoạch phải chỉnh sửa nhiều lần. Quy hoạch xây dựng nông thôn mới triển khai theo kế hoạch chậm, chất lượng thấp.

Hai là, hệ thống cơ chế chính sách về quản lý đầu tư XDCB từ NSNN còn nhiều bất cập

Cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN còn bất cập: Công tác triển khai thực hiện các dự án đầu tư XDCB từ NSNN phần lớn bị chậm so với tiến độ, một phần là do Cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN cồng kềnh, bị chia cắt qua nhiều khâu, nhiều cấp dẫn đến thủ tục rườm rà. Thông thường, một dự án đầu tư XDCB từ NSNN phải chịu sự chi phối của các cơ quan như: Chủ đầu tư; Cấp trên trực tiếp của chủ đầu tư; Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Ngân hàng nhà nước, các Bộ chuyên ngành...; Thủ tướng Chính phủ; Quốc hội. Hậu quả là thời gian chuẩn bị các thủ tục đầu tư, thời gian đầu tư bị kéo dài làm cho dự án đưa vào khai thác, sử dụng chậm, hiệu quả thấp.

Cơ chế phân cấp đầu tư chưa hoàn thiện, thiếu chặt chẽ: Cơ chế phân cấp đầu tư một mặt đã tạo điều kiện cho địa phương chủ động trong việc đầu tư phát triển kinh tế của địa phương, một mặt tạo điều kiện để quản lý thống nhất quá trình đầu


tư. Tuy nhiên do sự phân cấp cho UBND cấp xã, phường, thị trấn lớn về thực lực thì chủ đầu tư không đủ năng lực và trình độ chuyên môn để thực hiện các dự án dẫn đến tình trạng quản lý yếu kém và chất lượng công trình không cao.

Ba là, công tác lập kế hoạch và phân bổ vốn còn nhiều bất cập

Việc triển khai lập và giao kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 còn khó khăn, lúng túng. Một số dự án sử dụng vốn ngân sách Trung ương do nguồn vốn bị cắt giảm, song chậm làm điều chỉnh lại để phù hợp với nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 được giao, dẫn đến khó khăn, chậm tiện độ, một số dự án dự kiến thực hiện vượt kế hoạch Trung ương giao, trong khi đó nguồn vốn ngân sách tỉnh chưa bố trí trong kế hoạch trung hạn 2016 - 2020. Một số chương trình, dự án đã được triển khai trong giai đoạn 2011 - 2015 và khởi công mới các năm 2016, năm 2017, song nay Trung ương cơ cấu lại không được đầu tư, trong khi nguồn vốn của tỉnh lại không đáp ứng được nhu cầu, nên một số khối lượng phát sinh do bù giá, trượt giá và hoàn thành dự án đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý vẫn còn chậm được giải quyết. Kế hoạch vốn ở nhiều xã khi phân bổ còn chưa quan tâm bố trí vốn để xử lý nợ đọng XDCB, chưa bố trí vốn đảm bảo tiến độ thực hiện dự án và vẫn còn tình trạng khởi công quá nhiều các dự án trong khi nguồn vốn ngân sách khó khăn. Mặc dù đã nhiều lần đôn đốc, song một số chủ đầu tư chưa quan tâm, chủ động rà soát tiến độ thực hiện kế hoạch và thường trình điều chỉnh vào những ngày cuối năm, gây khó khăn cho việc tham mưu phân bổ, điều chỉnh vốn, như: Ban QLDA đầu tư xây dựng các công trình dân dụng tỉnh...

Cơ chế thanh toán vốn còn chưa hoàn thiện: Cần có chế tài quy định rõ trách nhiệm thanh toán thuộc về chủ đầu tư hay cơ quan thanh toán trong trường hợp hai bên không thống nhất, cơ chế tạm ứng, thu hồi tạm ứng còn chưa rõ ràng, còn có khe hở để cán bộ lạm quyền khi thực thi công việc. Thủ tục kiểm soát thanh toán còn phức tạp nhiều khi gây khó khăn, sách nhiễu, tiêu cực trong thanh toán vốn đầu tư XDCB. Công tác kiểm tra, đối chiếu số vốn thanh toán, quyết toán vốn hàng năm còn chậm, làm ảnh hưởng đến thời gian của nhà thầu và các bên liên quan.


Cơ chế quyết toán vốn đầu tư còn chậm: Nhiều chủ đầu tư quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành chậm, có công trình thi công xong đã phải sửa chữa lớn nhưng vẫn chưa quyết toán, chất lượng hồ sơ quyết toán chưa cao, làm mất tính nghiêm túc trong việc chấp hành các quy chế quản lý vốn đầu tư của nhà nước. Việc quyết toán chậm có nhiều lý do, nguồn vốn ít, thủ tục rườm rà, thiếu căn cứ quyết toán, thậm chí có công trình do thanh toán vượt giá trị thực quá lớn, nếu quyết toán sẽ phải thu hồi nên nhà thầu và chủ đầu tư chây ì cố tình không quyết toán.

Đến 31/12/2019 toàn tỉnh còn 100 công trình hoàn thành chậm nộp quyết toán trên 6 tháng (cấp tỉnh 2 dự án; cấp huyện 15 dự án; cấp xã 83 dự án); năng lực cán bộ ở nhiều xã không đáp ứng nhiệm vụ quyết toán;

Bảng 2.11: Tổng hợp các dự án hoàn thành được quyết toán và chậm quyết toán trên địa bàn toàn tỉnh

STT

Nội dung

2015

2016

2017

2018

2019

1

Số dự án được Chủ tịch UBND

tỉnh phê duyệt

201

40

75

86

55


2

Số dự án được CT UBND

huyện và CT UBND xã phê duyệt


952


590


413


1.280


2516

3

Số dự án hoàn thành chậm lập

BC quyết toán trên 6 tháng

156

115

5

177

100


- Cấp tỉnh

2



5

2


- Cấp huyện

2

24

5

5

15


- Cấp xã

152

91


47

83

4

Số dự án hoàn thành chậm lập

BC quyết toán dưới 24 tháng

0

27

3

14

20


- Cấp tỉnh







- Cấp huyện


2

3




- Cấp xã


25


14

20

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước tại tỉnh Bắc Giang - 12

(Nguồn: Báo cáo Quyết toán dự án hoàn thành - Sở Tài chính)


Qua bảng tổng hợp có thể nhận thấy: số dự án hoàn thành chậm lập báo cáo quyết toán trình cơ quan thẩm tra, phê duyệt quyết toán chủ yếu tập trung ở cấp huyện và cấp xã bởi năng lực quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện, cấp xã còn bất cập về số lượng, chất lượng, cơ cấu không đảm bảo dẫn đến những chậm chễ trong quá trình thực thi nhiệm vụ theo chức năng.

Bên cạnh đó, trình độ của cán bộ chuyên môn làm công tác đầu tư XDCB còn yếu, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Một số cơ quan được giao chủ đầu tư lại không có chuyên môn nghiệp vụ về quản lý ĐTXD, vừa yếu về năng lực lại vừa thiếu về số lượng, cán bộ chưa ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thời kỳ của khoa học và công nghệ.

Bốn là, Hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật thiếu tính khả thi và lạc hậu

Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN thông qua các định mức, đơn giá lập Báo cáo kinh kế kỹ thuật Dự toán công trình chưa sát với thực tế, do hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật chưa bao quát được hết tất cả các công việc, còn nhiều công việc khi tính toán đơn giá dự toán phải triết tính, vận dụng từ các công việc khác, dễ phát sinh tiêu cực. Công tác định mức, đơn giá còn lỏng lẻo, chưa bám sát với sự thay đổi của thị trường. Có thể nói đây là khâu rất yếu trong công cụ quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN của tỉnh Bắc Giang.

Năm là, vai trò giám sát đầu tư của cộng đồng trong quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN còn mờ nhạt

Mặc dù đã có các văn bản, các chỉ thị, thông tư trong việc thực hiện giám sát đầu tư của cộng đồng, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong quản lý vốn đầu tư, nhưng nhìn chung tính khả thi còn rất yếu. Chúng ta vẫn thường nói khá nhiều về công khai, minh bạch về dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra nhưng thực tế với cơ chế quản lý vốn đầu tư như hiện nay là một chu trình khép kín. Chủ đầu tư vừa là người được giao quản lý vốn, vừa là người quản lý dự án, giám sát, nghiệm thu, thanh toán và quyết toán, đây là một mô hình khép kín trong quá trình quản lý. Do đó việc giám sát đầu tư của cộng đồng đòi hỏi phải là người am hiểu về lĩnh vực


đầu tư XDCB, đồng thời phải là người có trình độ chuyên môn thì việc giám sát, đánh giá sau đầu tư mới chính xác. Ban giám sát phải phối hợp chặt chẽ với chủ đầu tư, phải có ý kiến kịp thời với UBND các cấp, các sở, ban ngành về vấn đề chủ đầu tư chưa tuân thủ trong thực hiện dự án để cùng nhau giải quyết, tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thi công và thực hiện dự án thì hiệu quả đầu tư mới cao.

b. Nguyên nhân của hạn chế Nguyên nhân chủ quan

Một là, thể chế đầu tư công có nhiều vấn đề bất cập chưa hoàn thiện. Theo quy định tại Luật Đầu tư công, để được bố trí vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn các dự án phải được phê duyệt chủ trương đầu tư.

Điều kiện để trình phê duyệt chủ trương bao gồm nhiều thủ tục như thẩm định nguồn vốn, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường… Song thực tế, các yêu cầu này không phát huy hiệu quả mà còn làm kéo dài thời gian phê duyệt do chưa xác định được tổng kinh phí cho cả giai đoạn tại thời điểm lập chủ trương đầu tư, các nội dung nêu tại đề xuất chủ trương đầu tư mới chỉ mang tính chất khái quát, nên việc đánh giá tác động môi trường gặp rất nhiều khó khăn, không sát với thực tiễn bởi phạm vi rộng, phức tạp. Điều này làm cho quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án kéo dài, ảnh hưởng tới hiệu quả dự án nói chung và hiệu quả đầu tư công nói riêng.

Trình tự, thủ tục phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư có nhiều vướng mắc, trong đó khâu thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn chưa được quy định rõ ràng. Luật Đầu tư công quy định dự án phải có quyết định chủ trương đầu tư mới được bố trí vốn, trong khi đó thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn là điều kiện bắt buộc để quyết định chủ trương đầu tư dự án đã tạo ra vòng luẩn quẩn.

Về cơ quan chủ trì thẩm định trình cấp có thẩm quyết quyết định đầu tư, Luật Xây dựng quy định đối với dự án sử dụng vốn NSNN thì cơ quan chuyên môn về xây dựng chủ trì tổ chức thẩm định dự án đầu tư và xây dựng để trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư; trong khi đó, Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn quy định cơ quan kế hoạch đầu tư là người chủ trì thẩm định nguồn vốn


và khả năng cân đối vốn để trình người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định dự án đầu tư. Quy trình quản lý vốn đầu tư bị tách rời ở nhiều khâu do nhiều cơ quan đảm nhiệm như: Lập kế hoạch và phân bổ vốn do cơ quan kế hoạch và đầu tư thực hiện, còn tổng hợp kết quả thực hiện, quyết toán thuộc trách nhiệm của cơ quan tài chính.

Hai là, một số quy định còn chưa đảm bảo cho việc tuân thủ kỷ luật tài chính. Điển hình là việc cho phép kéo dài thời hạn giải ngân trong 2 năm theo Luật Đầu tư công và Nghị định số 77/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của Chính phủ tạo tâm lý không cần thiết phải khẩn trương triển khai thực hiện thanh toán ngay trong năm, qua đó ảnh hưởng lớn đến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, tăng vốn chuyển nguồn sang năm sau. Đây là nhân tố làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và tốc độ quay vòng vốn.

Một lượng vốn lớn đã được bố trí phải chờ được giải ngân, trong khi Chính ph ủ vẫn phải vay nợ, trả lãi để thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra. Quy trình xét duyệt các dự án đủ điều kiện kéo dài mất nhiều thời gian và được Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo muộn (cuối tháng 4, đầu tháng 5 hàng năm), làm gián đoạn, thiếu vốn trong các t háng đầu năm nhưng lại tăng khối lượng công việc vào thời điểm cuối năm.

Việc ứng trước vốn kế hoạch đầu tư công còn không thống nhất và thiếu tiêu chí lựa chọn các dự án đủ điều kiện. Luật NSNN giới hạn tổng vốn được ứng trước không quá 20% dự toán chi đầu tư XDCB của năm thực hiện. Mức giới hạn này dẫn tới các dự án lớn, trọng điểm bị mắc về trần bố trí vốn để tăng tiến độ. Trong khi đó, Luật đầu tư công quy định các dự án có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn, nếu có nhu cầu, sẽ được ứng vốn để triển khai thực hiện. Nếu không có tiêu chí cụ thể để đánh giá sự cần thiết ứng vốn thì rất dễ dẫn tới mất cân đối ngân sách.

Ba là, định hướng cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng tăng chủ động cho chính quyền địa phương đang bị ảnh hưởng. Luật Đầu tư công quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư hầu hết liên quan tới cấp trung ương. Việc thẩm định nguồn vốn, điều chỉnh… liên quan đến ngân sách trung ương đều cần có ý kiến của trung ương và tuân theo một quy trình đầy đủ và mất nhiều thời gian.


Bốn là, khối lượng công việc cần kiểm tra, giám sát lớn dẫn đến kết quả kiểm tra, giám sát chưa cao. Hiện nay, số dự án phải báo cáo giám sát hàng năm rất nhiều, nên chỉ những dự án lớn, tập trung, các địa phương mới làm báo cáo, còn những dự án nhỏ khoảng vài trăm triệu đồng ở cấp huyện, xã thì không được liệt kê hết, báo cáo vì thế cũng không đầy đủ. Bên cạnh đó, báo cáo giám sát của các huyện, xã chưa phản ánh đúng thực tế về chất lượng công trình và việc thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng.

Tiêu chí giám sát, đánh giá đầu tư công còn chưa cụ thể, các quy định mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra trách nhiệm và nội dung giám sát, thực hiện giám sát đúng với quy trình thủ tục và quy định của pháp luật mà chưa đưa ra được các tiêu chí đánh giá cụ thể.

Nguyên nhân khách quan

Một số ngành, đơn vị còn thiếu trách nhiệm trong việc tham mưu lập quy hoạch; một số quy hoạch cần thiết nhưng không triển khai, trong khi đó có ngành, đơn vị lại đề xuất nhiều quy hoạch không cần thiết, một số quy hoạch khi ban hành gây cản trở việc thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, không phù hợp quy luật thị trường. Quá trình lập quy hoạch, một số chủ đầu tư lựa chọn đơn vị tư vấn yếu, đồng thời lại khoán trắng cho tư vấn, chất lượng phản biện chưa cao... dẫn đến tiến độ lập quy hoạch chậm, chất lượng quy hoạch hạn chế.

Năng lực một bộ phận cán bộ làm công tác kế hoạch còn hạn chế, trách nhiệm chưa cao; việc xây dựng kế hoạch không bám sát vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quá trình xây dựng, phân bổ kế hoạch chịu nhiều tác động chủ quan làm sai lệch các nguyên tắc, quy định

Công tác chuẩn bị đầu tư của một số chủ đầu tư còn chưa thực sự được quan tâm, kế hoạch triển khai chưa chủ động, lựa chọn tư vấn yếu về chuyên môn, trách nhiệm thấp đã làm tiến bộ triển khai dự án chậm, hồ sơ nhiều sai sót, phải điều chỉnh, chỉnh sửa nhiều lần trong quá trình triển khai thực hiện dự án, gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư.

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 12/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí