Lý Luận Chung Về Quản Lý Tài Chính Trong Các Doanh Nghiệp


Chương 1: Lý luận chung về quản lý tài chính trong các doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính của Tổng công ty Cổ phần Xây lắp

Dầu khí Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính của Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam.


CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

1.1. Tổng quan về tài chính trong các doanh nghi ệp

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên riêng, tài sản, trụ sở giao dịch ổn định và được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa hoặc làm dịch vụ cho người tiêu dùng qua thị trường, nhằm thỏa mãn nhu cầu con người và xã hội, và thông qua hoạt động hữu ích đó để thu lại lợi nhuận.

Theo bản chất kinh tế của chủ sở hữu, doanh nghiệp được chia ra làm ba loại chính gồm: Doanh nghiệp tư nhân (Proprietorship), doanh nghiệp hợp danh (Partnership) và Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn (Corporation). Ngoài ra, căn cứ vào Luật Doanh nghiệp 2020 thì hình thức pháp lý của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm : Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp cổ phần, Doanh nghiệp Nhà nước , Doanh nghiệp tư nhân và Doanh nghiệp hợp danh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Tài chính là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Tài chính phản ánh các quan hệ phân phối kinh tế dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành, tạo lập và phân phối các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu của các doanh nghiệp ở mỗi điều kiện nhất định. Tài chính có chức năng huy động, phân phối và giám sát nguồn tài chính của doanh nghiệp.

Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là một hệ thống các mối quan hệ về kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và phân phối, sử dụng nguồn tài chính và quỹ tiền tệ, quá trình hình thành và chu chuyển nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm thỏa mãn các mục đích sản xuất để đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp đó. Các hoạt động có liên quan đến việc hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ thuộc các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.

Quản lý tài chính của Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam PVC - 3

Hoạt động của tài chính doanh nghiệp luôn gắn liền và ph ục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên hoạt động tài chính


của doanh nghiệp luôn bị chi phối bởi tính sở hữu vồn và mục tiêu lợi nhuận trong mỗi doanh nghiệp.

Các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với việc hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp hợp thành các quan hệ tài chính của doanh nghiệp. Tổ chức tốt các mối quan hệ tài chính cũng hướng tới đạt được mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp.

Các mối quan hệ tài chính tài chính trong doanh nghiệp chủ yếu bao gồm:

(1) Quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước,

(2) Quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác,

(3) Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.

Tài chính doanh nghiệp thực chất nghiên cứu ba quyết định chủ yếu đó là: quyết định đầu tư, quyết định huy động nguồn vốn và quyết định quản lý vốn lưu động ròng.

1.1.2. Vai trò của tài chính trong các doanh nghiệp

Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có vai trò chủ yếu sau:

(1) Vai trò tạo lập nguồn tài chính, tài trợ đầy đủ và kịp thời cho các nhu cầu vốn của hoạt động sản xuất và kinh doanh với điều kiện cực tiểu hóa chi phí:

- Huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết được thể hiện ở việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải lực chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn để hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất.

- Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng t hời xác định giá bán hợp lý khi phát hành cổ phiếu, hàng hóa bán, dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ tiền thưởng, quỹ tiền lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế...

(2) Vai trò tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính:


Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư tối ưu; huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, phân bổ hợp lý các nguồn vốn, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.

(3) Vai trò giám sát tài chính các hoạt động sản xuất kinh doanh

Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính thực hiện mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dành nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, để từ đó có thể đánh giá khát quát và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định.

Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động trước hết là phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài chính, sau nữa còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp.

1.2. Quản lý tài chính trong các doanh nghi ệp

1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính của doanh nghiệp

Quản lý tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong công tác quản lý doanh nghiệp, luôn giữ vai trò trọng yếu trong hoạt động quản lý. Nó quyết định khả năng cạnh tranh, sự thành bại của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Quản lý tài chính là một trong những yếu tố có thể phản ánh được hiệu quả kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp để phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư cải tiến công nghệ và kỹ thuật trong kinh doanh và quản lý kinh tế, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của người l ao động, từ đó nâng cao vị trí xã hội và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.


Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng tài chính có hiệu quả trong quá trình kinh doanh sản xuất. Các chủ doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều phương pháp quản lý tài chính khác nhau, tuy nhiên, muốn đem lại hiệu quả cao nhất, với chi phí thấp nhất, cần nắm rõ được khái niệm, vai trò của quản lý tài chính trong các doanh nghiệp.

Khái niệm về quản lý tài chính của doanh nghiệp được thể hiện trên hai khía cạnh:

Thứ nhất, quản lý tài chính của doanh nghiệp là quản lý nội dung hoạt động tài chính từ khâu hình thành nguồn, phân bổ và sử dụng đến khâu phân phối kết quả tài chính của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp bao gồm huy động vốn, quản lý và sử dụng nguồn vốn và tài sản; quản lý doanh thu, chi phí, tính toán, xác định giá thành sản phẩm đúng và đủ các yếu tố; phân phối lợi nhuận sao cho đảm bảo lợi ích giữa các bộ phận trong doanh nghiệp và thực hiện ng hĩa vụ với Nhà nước. Vì vậy, quản lý sự vận động của nguồn vốn, quản lý sử dụng tài sản và quản lý kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như doanh thu, chi phí, lợi nhuận và các quỹ của doanh nghiệp chính là quản lý tài chính doanh nghiệp.

Thứ hai, quản lý tài chính của doanh nghiệp là sự tác động của nhà quản lý tới các hoạt động tài chính của doanh nghiệp theo một quy trình quản lý từ khâu lập kế hoạch, thực hiện đến khâu kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính . Ở đây các chủ doanh nghiệp sử dụng các công cụ tài chính, các phương thức tổ chức quản lý để kiểm soát sự vận động của các nguồn lực tài chính trong doanh nghiệp. Vì vậy, nội dung quan trọng của quản lý tài chính doanh nghiệp chính là việc kiểm soát tài chính, công tác kế toán-kiểm toán.

Từ đó, quản lý tài chính doanh nghiệp là tổng thể các phương pháp, hình thức, các nguyên tắc và công cụ được vận dụng để quản lý các hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.

Về bản chất, quản lý tài chính là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của sự vận dụng ý thức con người vào việc sử dụng các chức năng của tài chính, bởi vậy quản lý tài chính không phải là đại lượng bất biến mà nó luôn luôn được bổ sung


và hoàn thiện cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển.

Có thể hiểu, sự tác động của nhà quản lý tới các hoạt động tài chính của doanh nghiệp chính là quản lý tài chính. Quản lý tài chính được thực hiện thông qua việc sử dụng các thông tin chính xác phản ánh tình trạng tài chính của doanh nghiệp để phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của công tác quản lý tài chính trong doanh nghiệp. Từ đó, để có thể tăng lãi cổ tức của cổ đông, cần lập ra các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch sử dụng nguồn tài chính, tài sản cố định và các nhu cầu nhân công trong tương lai. Việc sử dụng các phương thức, công cụ quản lý để kiểm soát sự vận động của các nguồn lực tài chính trong các doanh nghiệp, phục vụ cho mục tiêu hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp cũng là quản lý tài chính.

Như vậy, trong phạm vi nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn này, quản lý tài chính của doanh nghiệp được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý (các nhà quản trị doanh nghiệp) đến đối tượng quản lý (các hoạt động tài chính của doanh nghiệp), trong đó, tập trung chủ yếu vào nghiên cứu nội dung quản lý bao gồm: quản lý nguồn lực tài chính; quản lý phân bổ và sử dụng vốn; quản lý doanh thu, chi phí.

1.2.2. Nguyên tắc của quản lý tài chính doanh nghiệp

Hoạt động QLTC của doanh nghiệp dù nhỏ hay lớn căn bản đều giống nhau nên nguyên tắc QLTC có thể áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên giữa các doanh nghiệp khác nhau cũng có sự hiểu biết khác biệt nhất định nên khi áp dụng nguyên tắc QLTC phải gắn với những điều kiện cụ thể.

- Nguyên tắc đánh đổi rủi ro và lợi nhuận

QLTC phải dựa trên quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể lựa chọn những đầu tư khác nhau tùy thuộc vào mức độ rủi ro mà họ chấp nhận và lợi nhuận kỳ vọng mà họ mong muốn. Hy vọng dự án mang lại lợi nh uận kỳ vọng cao khi họ bỏ tiền vào những dự án rủi ro cao.

- Nguyên tắc giá trị thời gian của tiền

Cần sử dụng khái niệm giá trị thời gian của tiền, tức là phải đưa lợi ích và chi phí của dự án về một thời điểm, thường là thời điểm hiện tại để đo lường giá trị tài


sản của chủ sở hữu. Dự án được chấp nhận khi lợi ích lớn hơn chi phí theo quan điểm của nhà đầu tư. Trong trường hợp này, chi phí cơ hội của vốn được đề cập như là tỷ lệ chiết khấu.

- Nguyên tắc chi trả

Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần đảm bảo mức ngân quỹ tố i thiểu để thực hiện chi trả. Vì vậy, điều đáng quan tâm ở các doanh nghiệp là các dòng tiền chứ không phải lợi nhuận kế toán. Dòng tiền ra và dòng tiền vào được tái đầu tư phản ánh tính chất thời gian của lợi nhuận và chi phí. Không những thế, khi đưa ra các quyết định kinh doanh, nhà quản lý cần chú ý đến dòng tiền tăng thêm, đặc biệt cần tính đến dòng tiền sau thuế.

- Nguyên tắc sinh lợi

Nguyên tắc quan trọng với nhà QLTC không chỉ là đánh giá các dòng tiề n khi dự án mang lại mà còn là tạo ra các dòng tiền, tức là tìm kiếm các dự án sinh lợi. Trong thị trường cạnh tranh, nhà đầu tư khó có thể tìm kiếm được nhiều dự án tốt, khó có thể kiếm được nhiều lợi nhuận trong thời gian dài. Muốn vậy cần phải biết các dự án sinh lợi tồn tại như thế nào và ở đâu. Sau đó, nhà đầu tư phải biết giảm tính cạnh tranh và đảm bảo mức chi phí thấp hơn mức chi phí cạnh tranh khi đầu tư.

- Nguyên tắc thị trường có hiệu quả

Thị trường có hiệu quả là thị trường mà tại đó giá trị của tài sản tại bất kỳ thời điểm nào đều phản ánh đầy đủ các thông tin một các công khai. Trong thị trường có hiệu quả giá cả được xác định chính xác.

- Gắn kết lợi ích của người quản lý với lợi ích của cổ đông

Nhà QLTC chịu trách nhiệm phân tích, kế hoạch hóa tài chính, quản lý ngân quỹ chi tiêu cho đầu tư và kiểm soát. Do đó, nhà QLTC thường giữ địa vị cao trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp và thẩm quyền tài chính, ít khi được phân quyền hoặc ủy quyền cho cấp dưới.

Nhà QLTC chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và thường đưa ra các quyết định tài chính trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày do các nhân viên cấp thấp hơn phụ trách. Các hoạt động và quyết định của nhà QLTC đều hướng


tới mục tiêu của doanh nghiệp: đó là sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hóa chi phí, và tăng thu nhập của các chủ sở hữu một cách vững chắc. Nhà QLTC đưa ra các quyết định vì lợi ích của các cổ đông của doanh nghiệp. Vì vậy, để làm rõ mục tiêu QLTC, cần phải trả lời một câu hỏi cơ bản hơn: theo quan điểm của cổ đông, quyết định QLTC tốt là gì ?

Nhà QLTC hành động vì lợi ích tốt nhất của cổ đông bằng các quyết định làm tăng giá trị thị trường cổ phiếu. Mục tiêu của QLTC là tăng giá trị của doanh nghiệp, là tối đa hóa giá trị hiện hành trên một cổ phiếu. Do đó phải xác định được kế hoạch đầu tư và tài trợ để giá trị của cổ phiếu có thể được tăng lên. Trên thực tế, hành động của nhà quản lý vì lợi ích tốt nhất của cổ đông phụ t huộc vào yếu tố: Mục tiêu của quản lý có sát với mục tiêu của cổ đông không? Vấn đề này liên quan đến hoạt động kiểm soát của doanh nghiệp.

- Tác động của thuế

Trước khi đưa ra quyết định tài chính, nhà quản lý luôn tính tới tác động của thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp. Khi xem xét tới một quyết định đầu tư, doanh nghiệp phải tính tới lợi ích thu được do dự án tạo ra trên cơ sở dòng tiền sau thuế. Hơn nữa, tác động của thuế cần được phân tích kỹ lưỡ ng khi thiết lập cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Bởi lẽ, khoản nợ có một lợi thế nhất định về chi phí so với vốn chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp, chi phí trả lãi là chi phí giảm thuế. Thông qua thuế, Chính phủ có thể khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng và đầ u tư vì thuế chính là một công cụ quản lý vĩ mô của Chính phủ. Các doanh nghiệp cần tính toán, cân nhắc để điều chỉnh các quyết định tài chính cho phù hợp, đảm bảo được lợi ích của các cổ đông.

1.2.3. Nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp

1.2.3.1. Quản lý nguồn lực tài chính – nguồn vốn của doanh nghiệp

Bất kể một doanh nghiệp nào cũng phải có một nguồn vốn nhất định. Nguồn vốn cho biết tài sản của doanh nghiệp đó từ đâu mà có và doanh nghiệp phải có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/03/2023