MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giáo dục và đào tạo, chất lượng giáo dục được quyết định bởi chính người học. Sự tiếp thu kiến thức của người học trong "dạy - học" là mối liên hệ ben trong, đó là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một quá trình nhận thức. Lênin đã nói "học, học nữa, học mãi". Như vậy, nâng cao chất lượng dạy học là phải nhằm vào người học, do đó việc quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên là rất quan trọng, đó là mẫu chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học mà chúng ta đang thực hiện.
Đối với sinh viên các trường Sư phạm, bên cạnh hoạt động học tập, hoạt động nghiên cứu khoa học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thông qua hoạt động này, sinh viên có điều kiện tìm tòi, nghiên cứu những vấn đề của thực tiễn giáo dục, dạy học có liên quan trực tiếp đến chuyên ngành được đào tạo của sinh viên. Nhờ đó, sinh viên được rèn luyện các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng vận dụng trí thức vào thực tiễn, kỹ năng xác định vấn đề cần nghiên cứu, kỹ năng đánh giá các vấn đề xã hội... Do vậy, cùng với việc quản lý hoạt động học tập của sinh viên, việc quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường Sư phạm.
Sau 6 năm thành lập, Trường Cao đẳng Sư phạm Salavan nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã từng bước chuyển biến cùng với việc từng bước đầu tư cơ sở vật chất của nhà trường, kiện toàn đội ngũ lãnh đạo, giáo viên nhà trường; hoạt động dạy và học của thày và trò trường Cao đẳng Sư phạm Salavan đã có nhiều đổi mới, ổn định, nền nếp, quy củ hơn.
Tuy nhiên, chất lượng học tập, nghiên cứu khoa học vẫn còn nhiều hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nguyên nhân chính từ phía người học. Các em đang trong độ tuổi lao động chính của gia đình; Vì thế thời gian học tập, nghiên cứu khoa học bị hạn chế, mặt khác các em sinh sống ở nhiều
vùng khác nhau của tỉnh Salavan, bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, chịu ảnh hưởng của nhiều tập tục lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp của đại bộ phận nhân dân, điều kiện sống, học tập rất khó khăn... tất cả những điều kiện này có ảnh hưởng đến chất lượng học và nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015
- 2020, tỉnh Salavan đã tập trung xây dựng 02 đề án về tăng cường củng cố hệ thống chính trị cơ sở và đề án phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh. Trong đó tập trung chính vào đào tạo nguồn nhân lực. Do vậy, việc quan tâm nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng học tập của sinh viên là việc làm rất cấp bách của nhiệm kỳ 2015 - 2020. Trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, tỉnh Salavan cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để quản lý tốt hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên, nâng cao chất lượng dạy và học, đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho địa phương và nguồn lao động cho cả nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - 1
- Nghiên Cứu Khoa Học , Hoạt Động Nghiên Cứu Khoa Học
- Quy Trình Nckh Của Sinh Viên Trường Cao Đẳng Sư Phạm
- Hiệu Trưởng Trường Cao Đẳng Sư Phạm Với Vai Trò Quản Lý Hoạt Động Nghiên Cứu Khoa Học Của Sinh Viên
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Xuất phát từ những điều nêu trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: "Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào", làm đề tài nghiên cứu luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
4. Giả thuyết khoa học
Vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan còn có những hạn chế nhất định như: Quá trình quản lý còn thiếu tính đồng bộ, biện pháp quản lý chưa thực sự có hiệu quả, chưa thúc đẩy được tính tích cực, độc lập, tự giác của sinh viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Nếu đề xuất và thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên phù hợp với tình hình thực tiễn thì có thể góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm
5.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng về công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận có liên quan đến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm để xây dựng khung lý thuyết cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát sinh viên trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu khoa học. Phương pháp này được sử dụng để hỗ trợ cho các phương pháp khác,
để thấy rõ hơn những biểu hiện cụ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên và việc quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong quá sinh viên trình thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Đây là một phương pháp thu thập thông tin dựa trên cơ sở quá trình giao tiếp bằng lời theo mục đích đặt ra. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn một số sinh viên để thu thập thêm thông tin cho đề tài.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Xây dựng các mẫu phiếu điều tra đối với giảng viên, các nhà quản lý và sinh viên nhằm thu thập thông tin về thực trạng hoạt động NCKH và quản lý hoạt động NCKH của sinh viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Salavan.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Tiến hành trưng cầu ý kiến chuyên gia về một số nội dung như đánh giá thực trạng nghiên cứu, đánh giá về tính khả thi và ý nghĩa của các biện pháp được đề xuất.
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Tập hợp kết quả NCKH của sinh viên dưới hình thức: báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học, biên bản đánh giá nghiệm thu sản phẩm của các đề tài NCKH do sinh viên thực hiện..., từ đó đưa ra nhận xét về thực trạng này.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận, khuyến nghị; Tài liệu tham khảo; Phụ lục, nội dung của luận văn được cấu trúc thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Năm 1971, M.T.Lubixưna và A.A. Gơroxepxki trong chuyên khảo Tổ chức công việc tự học của sinh viên cho rằng: "NCKH của sinh viên đại học là một trong những hình thức hoàn thiện nhất về mặt đào tạo khoa học, có hiệu quả thiết thực đối với việc nâng cao trình độ của sinh viên" [10, tr.24].
Năm 1972, P.T.Prikhodko trong tác phẩm Tổ chức và phương pháp công tác NCKH đã giới thiệu những nét đặc trưng cơ bản của hoạt động NCKH của sinh viên. Tác giả đánh giá tầm quan trọng của việc tổ chức cho sinh viên làm niên luận, khóa luận tốt nghiệp, coi đây là những hình thức NCKH ban đầu nhờ đó mà sinh viên có năng tự học và học suốt đời.
Hoa Kỳ trong Chiến lược 1998 - 2000 của Bộ Giáo dục đã ghi nhận NCKH giáo dục góp phần cải thiện nền giáo dục quốc gia, Hoa kỳ đã xác định những vấn đề ưu tiên tổ chức cho sinh viên NCKH. Trong tác phẩm “Research and Report Writing”, tác giả Francesco Cordasco và Elliots S.M.Galner đã chỉ ra những hoạt động cụ thể để hình thành kỹ năng NCKH cho sinh viên. Năm 1990, Gary Anderson (New York), trong tác phẩm “Fundamentals of educational research”, tác giả chú trọng đến việc tìm tòi các nguyên tắc, phương pháp cũng như công cụ, kỹ thuật NCKH để huấn luyện cho sinh viên.
Tại Singapore năm 1983, hai tác giả Keith Howard và John A.Sharp đã biên soạn tài liệu “The management of a student research project” nhằm giúp sinh viên biết cách quản lý kế hoạch nghiên cứu. Các tác giả đã trình bày những vấn đề về chọn lựa đề tài, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, tập hợp, phân tích, xử lý và đánh giá kết quả NCKH. Năm 1996, tác giả Brian Allison trong cuốn
“Research skills for students - National institute of education” đã đề cập đến những lý thuyết về NCKH, cung cấp kỹ năng tiến hành một cuộc điều tra, thiết kế một bảng hỏi và những kỹ thuật khi sử dụng phương pháp phóng vấn...
Như vậy, ở nước ngoài, qua nhiều công trình khoa học, có thể thấy, các tác giả quan tâm không chỉ về phương diện phương pháp luận, mà còn đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về tổ chức và các kỹ năng cụ thể cần được huấn luyện, trang bị cho sinh viên, đồng thời khẳng định NCKH là hoạt động tất yếu không thể thiếu đối với sinh viên trong trường đại học. Tuy nhiên, không có các nghiên cứu riêng về quản lý hoạt động NCKH trong trường đại học, cao đẳng mà chỉ có những nghiên cứu chung về quản lý đại học.
1.1.2. Ở Lào
Các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu của các viện và trường Cao đẳng từ lâu đã nhận thức được rằng: Sinh viên nghiên cứu khoa học là để tạo điều kiện, phương tiện cần thiết nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, năng lực tự học cho bản thân. Trong quá trình đào tạo ở các trường đại học, hoạt động NCKH được xem là một trong những hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả cao nhằm phát triển tư duy sáng tạo, tính tích cực, độc lập và chủ động trong quá trình học tập của sinh viên.
Nhiều tác giả, các nhà khoa học đã xuất bản các giáo trình hướng dẫn sinh viên trường cao đẳng nghiên cứu khoa học dưới các tiêu đề “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục” của Sikhamtat MITTALAI năm 2010 [16]; “Phương pháp luận nghiên cứu học tập - nghiên cứu” của bounmi PHONESAVANH năm 2009 [23]; “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” của Mithong năm 2005 với mục đích cung cấp cho sinh viên cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu khoa học, trang bị cho sinh viên những vấn đề lý luận cơ bản về NCKH để họ rèn luyện, thực hành nghiên cứu khoa học có hiệu quả. cập nhật bổ sung thông tin khoa học, tăng cường sự chính xác hoá loại bỏ những thông tin khoa học lạc hậu,
đưa vào giáo trình các thông tin khoa học mới, bên cạnh đó có tính tới trình độ nghiên cứu của sinh viên. Các tác giả, các nhà khoa học chủ yếu đề cập đến vấn đề NCKH, còn nội dung quản lý NCKH và đặc biệt là quản lý hoạt động NCKH của sinh viên chưa được đề cập.
Tóm lại, điểm qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề nghiên cứu khoa học của sinh viên, chúng tôi nhận thấy: các tác giả đã tập trung phản ánh tính cấp thiết, vai trò quan trọng của việc tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học. Một số tác giả đề xuất phương pháp, biện pháp, cách thức hướng dẫn đánh giá nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên trên cơ sở khảo sát thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường Cao đẳng Sư phạm. Tuy nhiên có rất ít công trình đề cập đến vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên ở trường cao đẳng sư phạm. Chúng tôi nhận thấy đây là vấn đề cần được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý lá một loại hình lao động quan trong các hoạt động của con người. Khoa học quản lý xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khoa học quản lý luôn gắng liền với sự phát triển của xã hội loài người nên nó luôn mang tính lịch sử, tính dân tộc... Trải qua một quá trình phát triển, khoa học quản lý được chia thành nhiều giai đoạn với các định nghĩa khác nhau:
Theo Taylor F.W.: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng học đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất’’ [33].
C. Mac viết “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sư chỉ
đạo để điều hòa những koạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phải sinh từ sự vận động của toàn cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dân nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [6, tr.50].
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng (NXB Giáo dục, 1998) thì “Quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan” [36].
Tùy theo nội dung, tính chất đặc thù của mỗi loại lao động mà quản lý có những phương pháp và cách thực tiếp cận riêng. Song nhìn chung, quản lý là hoạt động có hướng đích, có mục tiêu, hợp quy luật. Quản lý phải có một chủ thể quản lý (tác nhân tạo ra tác động) và khách thể quản lý (nhân trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý), phải có hệ thống công cụ quản lý, phải phù hợp với khách thể, hoàn cảnh và điều kiện khách quan của từng đơn vị.
Quản lý được xem như là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đói tượng quản lý về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế bằng một hệ thống các quy định, chính sách và cách biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và tạo điệu kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Ở Việt Nam, nhiều nhà khoa học cũng đã đưa ra những ý kiến khác nhau về quản lý những điều nhấn mạng rằng: Quản lý là một hoạt động mà trong đó con người vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý.
Theo tác giả Trần Quốc Thành: “Quản lý là những hoạt động có phối hợp nhằm định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu” [32].
Trong cuốn "Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý" (2000-NXB Chính trị quốc gia Hà Nội của tác giả Nguyễn Bá Sơn) thì “Quản lý là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng một hệ thống tác giải pháp nhằm thay đổi trạng thái của đổi tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu cuối cùng, phục vụ mục đích của con người” [31, tr.30].
Như vậy có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có tính hướng đích của chủ thể quản lý tới khách thể và đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.