được thanh tra, kiểm tra, kiểm toán CTX, chi ĐTPT.
- Số vụ sai phạm làm thất thoát ngân sách trong năm CTX, chi ĐTPT.
1.2.5.2. Các tiêu chí định tính
Một là, sự hài lòng của người dân được thụ hưởng chi NSĐP.
Nội dung này đề cập đến sự tham gia của người dân ở cấp địa phương. Về mặt khái niệm, sự tham gia của người dân đóng vai trò hết sức quan trọng trong quản trị nói chung và quản lý chi NSĐP nói riêng. Người dân, với tư cách là đối tượng thụ hưởng và thực thi chính sách, tham gia vào quy trình hoạch định chính sách, nêu lên ý kiến để tác động đến quan điểm và mục tiêu của chính sách, sao cho các chính sách khi được ban hành sẽ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ.
Hai là, công khai, minh bạch quản lý chi NSĐP.
Công khai, minh bạch có nghĩa là người dân và xã hội được biết chính quyền đang làm gì, có chính đáng hay không. Người dân đòi hỏi có thông tin đúng đắn và kịp thời để họ có thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và đánh giá chính sách một cách thực chất và có chất lượng đặc biệt là trong hoạt động quản lý chi NSĐP. Điều này, cũng giúp cho hệ thống hành chính đáp ứng tốt hơn với những đề xuất và nguyện vọng của người dân, phục vụ tốt hơn cho lợi ích của người dân sử dụng dịch vụ công. Cải thiện tính công khai, minh bạch cũng có tác dụng làm giảm động cơ tham nhũng của cán bộ, công chức.
Ba là, trách nhiệm giải trình với người dân về chi NSĐP.
Trách nhiệm giải trình với người dân là một trong những thuộc tính quan trọng của công tác quản trị và hành chính công nói chung và quản lý chi NSĐP nói riêng. Nó đóng vai trò hết sức đặc biệt trong công tác phòng chống chống tham nhũng, tránh thất thoát, lãng phí, cũng như nâng cao tính hiệu quả và mở rộng độ bao phủ của dịch vụ công. Trách nhiệm giải trình với người dân nhằm bảo đảm để người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước có cơ sở pháp lý và khả năng yêu cầu các cơ quan và cán bộ nhà nước phải có trách nhiệm giải trình về những việc họ đã làm hoặc chưa làm.
Có thể bạn quan tâm!
- Đúng Chế Độ, Tiêu Chuẩn, Định Mức Chi Ngân Sách
- Tổ Chức Bộ Máy Và Phân Cấp Quản Lý Chi Ngân Sách Địa Phương
- Kiểm Soát, Kiểm Toán, Thanh Tra Chi Ngân Sách Địa Phương Thứ Nhất, Kiểm Soát Nội Bộ Chi Nsđp.
- Một Số Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Cho Tỉnh Viêng Chăn
- Kết Quả Thực Hiện Chỉ Tiêu Xã Hội Tỉnh Viêng Chăn Giai Đoạn 2016 - 2020
- Dự Toán Chi Đtpt Tỉnh Viêng Chăn Giai Đoạn 2016 - 2020
Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.
1.2.6. Các nhân tố ảnh hướng đến quản lý chi ngân sách địa phương
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quản lý chi NSĐP. Các nhân tố này gồm các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan.
1.2.6.1. Các nhân tố khách quan
Thứ nhất, thiên tai, dịch bệnh và các rủi ro khác.
Thiên tai, dịch bệnh và các rủi ro là hệ quả từ sự biến động của nền kinh tế thế giới, của đất nước tác động tới địa phương, tới tỉnh một cách trực tiếp hay gián tiếp, các chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô của Nhà nước, các chiến lược về kinh tế như chiến lược CNH…
Các nhân tố khách quan này có thể xảy ra đối với các địa phương và có ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý chi NSĐP. Vì vậy, quản lý NSĐP phải tính toán, lường trước các rủi ro này.
Thứ hai, hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách quản lý chi NSĐP.
Pháp luật là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong việc quản lý nhà nước và quản lý chi NSĐP trong kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hệ thống pháp luật với vai trò hướng dẫn và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong xã hội hoạt động theo trật tự, trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo sự công bằng, an toàn và hiệu quả đòi hỏi phải rất đầy đủ, chuẩn tắc và đồng bộ. Do đó, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý chi NSNN nói chung và NSĐP nói riêng sẽ có tác dụng kiềm hãm hoặc thúc đẩy quản lý chi NSĐP hiệu quả hay không hiệu quả.
Các định mức ngân sách của Nhà nước là một trong những căn cứ quan trọng để xây dựng dự toán, phân bổ dự toán và kiểm soát chi NSĐP và cũng là một trong những chuẩn mực để đánh giá chất lượng quản lý và điều hành ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. Việc ban hành các định mức chi một cách khoa học, cụ thể, kịp thời sẽ góp phần không nhỏ trong việc quản lý chi NSĐP được chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn. Phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, các cấp chính quyền trong việc quản lý chi NSNN cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quản lý chi NSĐP. Chỉ trên cơ sở phân công nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, rõ ràng của từng cơ quan, địa phương sẽ tạo điều kiện cho quản lý chi NSĐP đạt hiệu quả, không lãng phí công sức, tiền của. Sự phân định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý chi NSNN phải được tôn trọng và thể chế hóa thành Luật để các cơ quan cũng như từng cá nhân có liên quan biết được phạm vi trách nhiệm và
quyền hạn của mình trong thực hiện nhiệm vụ, dựa trên nguyên tắc rõ ràng và minh bạch không đùn đẩy trách nhiệm, ràng buộc trách nhiệm giải trình rõ ràng góp phần làm minh bạch và nâng cao hiệu quả quản lý chi NSĐP.
Thứ ba, giới hạn khả năng NSĐP và nguồn lực tài chính công.
Dự toán về chi NSĐP được lập luôn luôn dựa và tính toán có khoa học của nguồn lực tài chính công huy động được. Vì vậy, chi NSĐP không được vượt quá nguồn thu huy động được, đồng thời cũng căn cứ vào nhiệm vụ phát triển KTXH ở địa phương để lập dự toán chi NSĐP hàng năm. Đối với các địa phương có nguồn thu lớn thì không phụ thuộc vào NSTW cấp thì chủ động hơn trong việc lập dự toán chi và quản lý chi NSĐP.
1.2.6.2. Các nhân tố chủ quan
Nhóm nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến quản lý chi NSĐP bao gồm: Quan điểm của lãnh đạo địa phương về vai trò của công tác quản lý chi ngân sách, năng lực quản lý của người lãnh đạo và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý chi NSĐP, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và các đơn vị trong công tác quản lý, điều hành chi NSĐP cũng như hệ thống thông tin quản lý, quy trình nghiệp vụ, công nghệ quản lý chi NSĐP.
Thứ nhất, quan điểm của lãnh đạo địa phương về vai trò của công tác quản lý chi NSĐP.
Con người đặc biệt là người lãnh đạo luôn là nhân tố trung tâm có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động quản lý và điều hành NSNN nói chung và NSĐP nói riêng. Quan điểm của lãnh đạo địa phương về vai trò của công tác quản lý chi NSĐP luôn giữ vai trò nòng cốt cho các quyết định quản lý và các quan hệ quản lý. Vai trò này được thể hiện không chỉ ở khâu quyết định quản lý mà còn xuyên suốt cả tiến trình thực hiện quyết định đó. Nếu lãnh đạo địa phương xác định rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác quản lý chi NSĐP sẽ góp phần đưa ra những quyết định quản lý chi ngân sách hợp lý, phù hợp tình hình địa phương, góp phần thực hiện tốt mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của địa phương trong quản lý chi NSĐP.
Thứ hai, năng lực quản lý của người lãnh đạo và trình độ chuyên môn của
đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý chi NSĐP.
Năng lực chuyên môn của các bộ phận quản lý chi ngân sách ở địa phương lại là yếu tố quyết định hiệu quả chi NSĐP. Nếu cán bộ quản lý có năng lực chuyên môn cao sẽ giảm thiểu được sai lệch trong cung cấp thông tin của đối tượng sử dụng vốn NSĐP, kiểm soát được toàn bộ nội dung chi, nguyên tắc chi và tuân thủ theo các quy định về quản lý chi NSĐP đảm bảo theo dự toán đã đề ra.
Bên cạnh năng lực chuyên môn thì đối với cán bộ công chức cũng cần phải tránh bệnh xu nịnh, chiều ý cấp trên, là thói quen xin cho, hạch sách, thiếu ý thức chịu trách nhiệm cá nhân. Thậm chí là sa sút về phẩm chất đạo đức như đòi hối lộ, đưa đút lót, thông đồng, móc ngoặc, gian lận… đây là những nhân tố ảnh hưởng không tốt tới quá trình quản lý chi NSĐP, đặc biệt là chi cho đầu tư XDCB (do vốn đầu tư XDCB thường lớn) gây giảm hiệu quả sử dụng vốn NSĐP nghiêm trọng.
Thứ ba, tổ chức bộ máy quản lý chi NSĐP.
Tổ chức bộ máy quản lý chi NSĐP và việc vận dụng quy trình nghiệp vụ quản lý vào thực tiễn địa phương: hoạt động quản lý chi NSĐP được triển khai có thuận lợi và hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào tổ chức bộ máy quản lý chi NSĐP và quy trình nghiệp vụ, trong đó đặc biệt là quy trình nghiệp vụ quản lý. Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý, quyền hạn trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận, mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình thực hiện từ lập, chấp hành, quyết toán và kiểm toán chi NSĐP có tác động rất lớn đến quản lý chi NSĐP. Tổ chức bộ máy quản lý phù hợp sẽ đảm bảo chất lượng quản lý, hạn chế tình trạng sai phạm trong quản lý. Quy trình quản lý được bố trí càng khoa học, rõ ràng thì càng góp phần quan trọng làm nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định quản lý chi NSĐP, giảm các yếu tố sai lệch thông tin. Từ đó, hoàn thiện hoạt động quản lý chi NSĐP.
Thứ tư, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và các đơn vị trong quản lý, điều hành chi NSĐP.
Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và các đơn vị trong công tác quản lý, điều hành chi NSĐP là một yêu cầu tất yếu khách quan, vì không có bất cứ cơ
quan, đơn vị nào thực hiện được chức năng quản lý chi NSĐP, hoàn thành được nhiệm vụ của mình một cách biệt lập. Phối hợp là sự kết hợp các hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị với nhau để cho các cơ quan, đơn vị này thực hiện tốt hơn các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt được các lợi ích chung… Hình thức và nội dung của sự phối hợp quản lý quản lý chi NSĐP bao gồm các hoạt động cung cấp thông tin, trợ giúp vật chất, phương tiện kỹ thuật, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ nguồn lực, tài chính, xác định nội dung công việc và phạm vi trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân được phân công thực hiện những nhiệm vụ chung. Trong quá trình quản lý chi NSĐP, nếu sự phối hợp giữa các cấp, các ngành không tốt sẽ ảnh hưởng đến kết quả chi NSNN cũng như ảnh hưởng đến hoạt động quản lý chi ngân sách ở địa phương.
Thứ năm, hệ thống thông tin quản lý NSĐP.
Thực chất của quản lý là quá trình ra quyết định. Để ra được quyết định các cơ quan quản lý cần thu thập và xử lý thông tin. Nếu thông tin thu thập được không đầy đủ, thiếu độ tin cậy thì hiệu quả công tác quản lý sẽ không cao và ngược lại.
Thông tin về thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách… được công bố rộng rãi, kịp thời đến với các đối tượng thụ hưởng ngân sách và các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách sẽ tạo điều kiện thuận lợi để họ tuân thủ đúng quy định, do đó, tạo thuận lợi cho công tác quản lý. Có thể nói chất lượng và tính kịp thời của thông tin là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý chi NSĐP.
Thứ sáu, công nghệ quản lý chi NSĐP.
Ứng dụng công nghệ tin học vào trong cuộc sống ngày nay đã và đang thực sự chứng tỏ vai trò không thể thiếu được của nó. Thực tế đã chứng minh với việc ứng dụng công nghệ tin học vào trong công tác quản lý chi NSNN nói chung và quản lý chi ngân sách của từng địa phương nói riêng sẽ giúp tiết kiệm được thời gian xử lý công việc, đảm bảo được tính chính xác, nhanh chóng và thống nhất về mặt dữ liệu, tạo tiền đề cho những quy trình cải cách về mặt nghiệp vụ một cách hiệu quả. Chính vì lẽ đó, công nghệ tin học là một trong những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý chi NSĐP.
Thực hiện tốt việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý NSĐP sẽ có
tác động, ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý và chất lượng phục vụ người dân, giúp các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền kịp thời nắm bắt chính xác thông tin liên quan đến chi ngân sách. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý có thể ra quyết định điều chỉnh kịp thời để đảm bảo đáp ứng nhiệm vụ chi, hạn chế tối đa việc lãng phí trong sử dụng ngân sách.
Chẳng hạn như việc ứng dụng Hệ thống Thông tin Quản lý Ngân sách và Kho bạc (TABMIS: Treasury and Budget Management Information System) sẽ HĐH công tác quản lý chi ngân sách từ khâu lập kế hoạch, thực hiện và báo cáo ngân sách, nâng cao tính minh bạch trong quản lý chi NSĐP, hạn chế tiêu cực trong việc sử dụng ngân sách hay việc áp dụng các phần mềm kế toán ngân sách cũng góp phần giúp đơn vị sử dụng ngân sách thuận tiện hơn trong công tác thực hiện, điều hành và quản lý chi ngân sách, giúp cho công tác báo cáo cấp trên được nhanh chóng, kịp thời.
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM VÀ Ở NƯỚC CHDCND LÀO
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý chi ngân sách của một số địa phương
1.3.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam
Công tác lập và bố trí kế hoạch vốn đầu tư từ NSNN của tỉnh Hà Tĩnh có nhiều chuyển biến tích cực, phù hợp với quy hoạch phát triển KTXH của tỉnh, cho phép thực hiện khá hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn NSNN, hạn chế đáng kể mức độ lãng phí, thất thoát, dàn trải trong đầu tư XDCB từ NSNN, giảm dần khối lượng các công trình XDCB còn nợ vốn thanh toán, quy trình bố trí kế hoạch vốn được triển khai nhanh, chặt chẽ và minh bạch.
Việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư của tỉnh Hà Tĩnh dựa vào các tiêu chí: ưu tiên vốn cho các dự án chưa hoàn thành trong năm trước kéo dài tới năm sau, các dự án sắp hoàn thành, vốn đối ứng cho các dự án ODA theo tiến độ thực hiện, dự án chỉnh trang đô thị, y tế, giáo dục, nông nghiệp và phát triển nông thôn, an sinh xã hội. Hà Tĩnh hạn chế tối đa việc khởi công dự án mới khi chưa đủ vốn để bố trí cho các dự án chuyển tiếp. Các dự án khởi công mới trong năm phải nằm trong quy hoạch đã được duyệt và đã hoàn tất công tác chuẩn bị. Hà Tĩnh đã thực hiện phân cấp và trao
quyền quản lý vốn đầu tư cho các huyện, thị xã thuộc Tỉnh, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động trong quá trình quản lý, điều hành vốn đầu tư được giao, gắn trách nhiệm quản lý dự án cho từng cấp, ban ngành.
Trong điều hành dự toán chi NSĐP từ năm 2015 đến 2020, các cơ quan thụ hưởng NSĐP trên địa bàn Tỉnh đã chấp hành nghiêm túc Luật NSNN, thực hiện tốt yêu cầu tiết kiệm chi, phân bổ ngân sách đầu tư XDCB tập trung cho dự án ưu tiên. Định mức phân bổ dự toán CTX được coi là cơ sở để phân chia dự toán chi NSĐP giữa tỉnh với huyện, thị xã.
Tỉnh Hà Tĩnh đã kế thừa kết quả đạt được của định mức phân bổ dự toán chi NSĐP theo Nghị quyết số 4a/2015/NQCĐ-HĐND ngày 4 tháng 11 năm 2015 của HĐND tỉnh về định mức phân bổ NSĐP năm 2007: Đối với ngân sách huyện, tiếp tục lấy biên chế - tiền lương làm tiêu chí chủ yếu; đồng thời tiếp tục sử dụng các tiêu chí về dân số, địa bàn, điều kiện KTXH làm tiêu chí xem xét phân bổ NSĐP cho phù hợp với đặc thù của từng huyện và bao quát hết các nhiệm vụ chi. Hằng năm, căn cứ vào khả năng NSĐP và tình hình thực tế về chi phí cấu thành trong định mức hành chính, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh tăng định mức chi hành chính cho phù hợp cùng với việc trình phân bổ dự toán hằng năm
1.3.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam
Quảng Ninh là một trong 13 địa phương của Việt Nam có số thu NSNN được điều tiết về Trung ương. Hằng năm, số thu NSĐP của Quảng Ninh tăng, nhưng kèm theo đó, số chi NSĐP cũng tăng theo. Năm 2014, tổng chi ngân sách của tỉnh ở mức hơn 8.600 tỷ đồng, năm 2015 đã tăng lên 13.200 tỷ đồng, năm 2017 lên gần 16.000 tỷ đồng và năm 2018 gần 18.000 tỷ đồng. Điều đáng nói là tuy số chi tăng nhanh, nhưng Quảng Ninh lại có cách xác định chi NSĐP theo hướng ưu tiên chiến lược và hiệu quả.
Định hướng Quảng Ninh là tiếp tục theo đuổi mục tiêu dành mọi nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, tạo động lực thúc đẩy phát triển KTXH. Quảng Ninh là một trong số ít địa phương bố trí vốn cho đầu tư XDCB đạt tỷ trọng hơn 50% tổng chi NSĐP. Theo đó, năm 2014, tỉnh bố trí 54%; năm 2015 là 53,7%; năm 2016 hơn 54%. Tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút
đầu tư, đồng thời quyết liệt trong chỉ đạo điều hành ngân sách với tinh thần tiết kiệm CTX để tăng chi NSĐP cho hoạt động ĐTPT. Theo đó, toàn bộ số tiền 1.700 tỷ đồng của năm 2015 và gần 2.700 tỷ đồng của năm 2016 có được do tiết kiệm CTX đã được "dồn" cho nhiệm vụ đầu tư, góp phần đẩy mức chi ĐTPT năm 2016 của Quảng Ninh lên 56% tổng chi NSĐP, cao gấp gần hai lần tỷ lệ chi ĐTPT của năm 2014 (29,5%).
Tỉnh đã điều hành linh hoạt NSĐP, sử dụng các nguồn lực khác từ nguồn tăng thu, ứng trước từ nguồn dự phòng tiền lương,... để bổ sung nguồn lực cho ĐTPT. Song song với việc tăng chi cho ĐTPT, Quảng Ninh cũng chủ trương tiết kiệm CTX. Do thực hiện khá sát sao công tác tinh giản bộ máy, biên chế cán bộ, nên hằng năm UBND tỉnh đều giao tăng phần tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khối tỉnh, giảm dần phần NSĐP cấp cho các đơn vị. Theo thống kê của Sở Tài chính, so với năm 2014, năm 2017 đã giảm 32 trong số 142 đơn vị hưởng NSĐP 100%, đồng thời tăng bốn đơn vị tự chủ 100% về tài chính, đưa số đơn vị tự chủ 100% lên 18 đầu mối, tăng sáu đơn vị tự chủ 70%, sáu đơn vị tự chủ 50% và 14 đơn vị tự chủ 30%. Năm 2018, toàn tỉnh tiếp tục giảm thêm 20 đơn vị ngân sách bảo đảm 100%; tăng thêm 16 đơn vị tự chủ 100%, một đơn vị tự chủ 70%, một đơn vị tự chủ 60%, 13 đơn vị tự chủ 50%, sáu đơn vị tự chủ 30%, bảy đơn vị tự chủ 20%... Như vậy, việc giảm chi NSĐP cho khu vực hành chính sự nghiệp đã được Quảng Ninh coi là biện pháp chủ yếu trong cuộc đua giảm chi tiêu NSĐP trong khu vực hành chính - sự nghiệp. Vì vậy, Quảng Ninh đã được nhiều địa phương coi là điển hình để học tập về mô hình quản lý chi NSĐP gắn với cải cách bộ máy hành chính nhà nước.
1.3.1.3. Kinh nghiệm của tỉnh Chămphasack, Lào
Quản lý chi NSĐP tỉnh Chămphasack, thuộc Miền Nam Lào, thuộc đơn vị thứ 2 thực hiện thí điểm đề án (Bộ Tài chính Lào, 2010). Trong công tác quản lý chi, tỉnh Chămphasack tập trung chỉ đạo triển khai quản lý chặt chẽ các khoản chi NSĐP theo đúng quy định của Luật NSNN. Thường xuyên phối hợp với cơ quan tài chính, đơn vị dự toán, kiểm tra, rà soát bảo đảm quản lý chặt chẽ, đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức quy định. Đôn đốc các chủ đầu tư phối hợp với nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công, nghiệm thu khối lượng, hoàn thiện hồ sơ gửi đến kho bạc để