khuyến khích thương mại điện tử giữa Việt Nam và Nhật Bản. Đây là hiệp định tự do hóa thương mại song phương đầu tiên của Việt Nam và là hiệp định đối tác kinh tế thứ mười của Nhật Bản.
Hai nước có ý định thành lập hiệp định này ngay từ năm 2005 và bắt đầu tiến hành đàm phán về Hiệp định này từ tháng 1 năm 2007 ngay sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Sau 9 phiên đàm phán chính thức và nhiều phiên đàm phán không chính thức, hai bên đã hoàn tất thỏa thuận nguyên tắc vào tháng 9 năm 2008 và chính thức ký hiệp định vào ngày 25/ 12
/2008.
“Nội dung cơ bản của Hiệp định
Theo cam kết của phía Nhật Bản, thuế suất bình quân đánh vào hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản sẽ giảm dần xuống 2,8% vào năm 2018.
Nhật Bản cam kết sẽ giảm thuế suất cho 95% tổng số dòng thuế, trong đó khoảng vài ngàn dòng thuế xuống 0%. Nếu Hiệp định được ký kết và có hiệu lực. Đây là mức cam kết cao nhất của Nhật Bản đối với một nước thành viên ASEAN. Cụ thể
- Ít nhất sẽ có 86% hàng nông lâm thủy sản và 97% hàng công nghiệp Việt Nam xuất sang Nhật sẽ được hưởng ưu đãi thuế.
- Các mặt hàng khoáng sản sẽ được hưởng thuế nhập khẩu là 0% ngay lập tức kể từ khi hiệp định có hiệu lực.
- Các mặt hàng tôm sẽ được giảm thuế suất nhập khẩu xuống 1%-2% ngay lập tức, các mặt hàng chế biến từ tôm được giảm xuống còn 3,2%-5,3% ngay lập tức, mặt hàng mực đông lạnh được giảm xuống còn 3,5% trong vòng 5 năm.
Những mức này áp dụng trên cho Việt Nam cao nhất trong số các EPA (Hiệp định đối tác kinh tế) với các nước ASEAN.
Việt Nam được hưởng 1638 dòng thuế tương đương mức cam kết tốt nhất mà Nhật dành cho một số nước ASEAN. 23 trong tổng số 30 mặt hàng nông lâm thủy sản có giá trị xuất khẩu cao nhất của Việt Nam sang Nhật sẽ được hưởng thuế suất 0% ngay lập tức hoặc qua lộ trình không quá 10 năm khi nhập khẩu vào Nhật Bản.....
Trong khi đó, thuế suất bình quân đánh vào hàng của Nhật Bản nhập khẩu vào Việt Nam sẽ giảm dần xuống còn 7% vào năm 2018.
- Khoảng 88% tổng số dòng thuế nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam sẽ được được giảm trong vòng 10 năm và 93% tổng số dòng thuế sẽ được giảm trong vòng 16 năm.
- Các linh kiện sản xuất màn hình phẳng và DVD sẽ được giảm thuế suất nhập khẩu xuống 3% trong vòng 2 năm, máy ảnh kỹ thuật số sẽ được giảm xuống 10% trong vòng 4 năm, tivi màu sẽ được giảm xuống còn 40% trong vòng 8 năm.
- Thuế suất nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt nam đối với các linh kiện sản xuất ô tô như hộp số sẽ được giảm xuống còn 10%-20% trong vòng 10 năm, động cơ và các linh kiện sản xuất động cơ ô tô sẽ được giảm xuống còn 3%-12% và phanh xuống còn 10% trong vòng 10-15 năm, các loại ốc sẽ giảm xuống còn 5% trong vòng 2 năm. Các mặt hàng thép tấm cũng là đối tượng được giảm thuế suất nhập khẩu xuống còn 0%-15% trong vòng 15 năm.” 4
Tuy nhiên, vì đây là một hiệp định đối tác kinh tế toàn diện, chứ không đơn thuần là một hiệp định thương mại tự do, nên ngoài hàng hóa, còn có dịch vụ cũng sẽ được tự do hóa. Đầu tư của nước này vào nước kia sẽ được bảo hộ. Và còn có nhiều nội dung hợp tác kinh tế khác.
1.2.5. Ảnh hưởng từ sự gia tăng FTA giữa Nhật Bản với Việt Nam và khu vực.
Các FTA là công cụ chính sách dành ưu đãi cho các đối tác chiến lược. Việc giảm thuế và nhiều nội dung khác trong đàm phán song phương đi theo xu hướng tương thích với những quy định của WTO giúp cho liên kết kinh tế nội khối tăng cường theo lộ trình xây dựng thị trường duy nhất trong khối. Hiện nay, có 11 lĩnh vực ưu tiên phát triển nhanh trong ASEAN bao gồm: sản phẩm từ gỗ, sản phẩm từ cao su, sản phẩm từ nông sản, sản phẩm thuỷ sản, sản phẩm dệt may và những phụ kiện, ôtô, hàng điện tử, lữ hành hàng không, du lịch, y tế và ASEAN điện tử; gần đây, bổ sung lĩnh vực hậu cần (logistic) do Việt Nam điều phối quy hoạch tổng thể trong ASEAN là lĩnh vực 12. Các FTA với những cam kết giảm rào cản thương mại và đầu tư góp phần thu hút nguồn lực vào các lĩnh vực kinh tế ưu tiên kể trên đồng thời triển khai đa phương hoá chủ nghĩa khu vực nhằm xây dựng khối kinh tế phù hợp với lộ trình tự do hoá toàn cầu. Một thị trường duy nhất chắc chắn thúc đẩy tạo lập thương mại trên phạm vi toàn khối. Nếu FTA được coi là những hòn đá kê chân trên lộ trình đến với thế giới mở hơn nữa, thì các FTA giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài cũng sẽ góp phần như vậy đối với thương mại ASEAN.
- Đối với ASEAN, vai trò trung gian và cân bằng quyền lực, lợi ích của các nước lớn trong và ngoài khối luôn là vấn đề thường trực và bất biến. Vì thế, việc ký kết FTA toàn khối với 3 đối tác Đông Á không chỉ thúc đẩy đan xen quyền lợi kinh tế mà còn đảm bảo an ninh chính trị lâu dài trong khu vực. AEC là mục tiêu hội nhập kinh tế khu vực và góp phần quan trọng nhất tạo ra sức mạnh cho ASEAN. Trong tương lai, khi ASEAN có sức nặng kinh tế hơn nhờ tham gia vào chiến lược FTA, AEC sẽ đóng vai trò "trục" phát triển kết nối với các quốc gia Đông Á qua các quan hệ kinh tế quốc tế là những "nan hoa".
Nguyên tắc ASEAN+1 được cụ thể hoá qua các FTA song phương với các nền kinh tế khổng lồ chắc chắn thúc đẩy cải thiện môi trường chính sách nghiêng về phía có lợi cho tăng trưởng trong ASEAN hơn. Biết liên kết tập thể, biết lợi dụng xu thế lớn, cân bằng chiến lược giữa các nước lớn sẽ tạo ra môi trường khả biến trong ASEAN và đảm bảo cho tính khả thi của AEC cũng như AC.
- Trong các nội dung trong đàm phán FTA chứa đựng yêu cầu mang hàm ý cải cách thể chế - công việc cấp thiết đối với ASEAN khi xây dựng AEC và AC. Các FTA của ASEAN với đối tác bên ngoài sẽ giúp thúc đẩy quá trình thay đổi thể chế nhanh hơn và chất lượng tốt hơn. Sự ra đời trong tương lai gần của Hiến chương ASEAN chính là một trong những động thái tích cực của cải cách thể chế hiệp hội này
Với một lộ trình và mức giảm thuế theo VJEPA và AJCEP, người ta kỳ vọng sẽ có bước ngoặt lớn cho hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản và ngược lại. Việt Nam là một trong số các nước hưởng tương đối nhiều ưu đãi trong hiệp định này. Việt Nam có lộ trình cam kết dài hơn so với một số nước khác nhưng lại được hưởng ưu đãi như các nước ASEAN khác khi tiếp cận thị trường Nhật Bản. Tỷ lệ sử dụng các ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt Nam trong AJCEP tương đối cao, chiếm khoảng 27% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản. Đây có thể coi là một mô hình đàm phán thành công của Việt Nam bởi vì AJCEP thực sự mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước. Đối với các nước khác, việc thực hiện AJCEP tương đối thuận lợi. Trong giai đoạn từ 2010 đến khi kết thúc, ASEAN và Nhật Bản dự kiến sẽ đưa ra lộ trình toàn diện cho các cam kết cắt giảm thuế quan.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thương mại hàng hóa, ASEAN và Nhật Bản cùng trao đổi quan điểm về việc cải thiện các quy tắc về xuất xứ theo hướng dễ thực hiện hơn nhằm giúp các doanh nghiệp hai bên tiếp cận thị trường của
nhau. Nhật Bản và ASEAN đã nêu ra một số mặt hàng họ quan tâm, nhưng hai bên chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các quan điểm của nhau và nhất trí sẽ tiếp tục thảo luận trong thời gian tới.
Nhật Bản dành ưu đãi GSP cho một số mặt hàng của các nước đang phát triển và kém phát triển, trong đó có Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang nước này. Hơn nữa, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO từ 1/1/2007, với cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa từ mức bình quân hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% trong vòng 5-7 năm. Đây là cơ hội để các DOANH NGHIệP có thể tận dụng những ưu đãi này để nhập khẩu nguồn nguyên vật liệu và công nghệ của Nhật Bản để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ cao phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Nhật Bản dành ưu đãi GSP cho một số mặt hàng của các nước đang phát triển và kém phát triển, trong đó có Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang nước này. Việt Nam đã chính thức ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) vào ngày 1/4/2008 và hiệp định này dự kiến sẽ có hiệu lực từ cuối năm 2008. Trong khuôn khổ AJCEP, Việt Nam cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị thương mại hai chiều Việt – Nhật trong 16 năm. Việt Nam mặc nhiên hưởng lợi từ ưu đãi của Nhật Bản cam kết dành chung cho ASEAN. Theo cam kết AJCEP, Nhật Bản đã loại bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị thương mại Việt – Nhật trong vòng 10 năm.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN
2.1.Tổng quan chung quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản qua các chặng đường trước năm 2008
2.1.1. Giai đoạn 1973 – 1986
Ngày 21 tháng 9 năm 1973, đại diện hai nước (phía Nhật Bản là ông Yoshihiro Nakayama, Đại sứ Nhật Bản tại Cộng hòa Pháp; phía Việt Nam là ông Võ Văn Sung, Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Pháp) đã ký vào Văn kiện thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật Bản. Mặc dù hai nước đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao nhưng đây chỉ là giai đoạn mở đầu chậm chạp.
“Chỉ từ sau ngày 30/41975, khi đất nước Việt Nam đã thống nhất, quan hệ giữa hai nước mới từ đó được nâng dần lên. Tháng 10/1975 và tháng 1/1976, Việt Nam và Nhật Bản đã trao đổi Đại sứ quán ở thủ đô của mỗi nước. Chính phủ Nhật Bản đã ký thoả thuận về việc bồi thường chiến tranh cho Việt Nam với danh nghĩa viện trợ không hoàn lại 13,5 tỷ yên (tương đương 49 triệu USD ). Tiếp theo đó, trong hai năm 1977-1978, Chính phủ hai nước đã ký kết thoả thuận về việc Việt Nam nhận trả nợ cũ của Chính quyền Sài Gòn trước đây 20,8 tỷ yên, Nhật Bản cam kết viện trợ không hoàn lại 16 tỷ yên cho Việt Nam trong 4 năm ( kể từ năm1978 ) và cho Việt Nam vay 20 tỷ yên trong 2 năm 1978-1979. Tính đến hết năm 1978, phía Nhật Bản đã cho Việt Nam vay 10 tỷ yên, viện trợ không hoàn lại 4 tỷ yên” 14, tr.13-14. Trong ba năm liền từ năm 1976 - 1978, quan hệ mậu dịch của hai nước tiếp tục phát triển, với tổng kim ngạch hàng năm tương ứng khoảng 159 triệu USD, 247 triệu USD và 268 triệu USD. Như vậy, có sự gia tăng quá nhanh về quy mô và giá trị.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản 1973-1986
Đơn vị: Triệu USD
Kim ngạch xuất khẩu | Kim ngạch nhập khẩu | Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu | |
1973 | 7.627 | 4.429 | 12.056 |
1974 | 30.194 | 20.394 | 50.588 |
1975 | 26.697 | 2.973 | 69.670 |
1976 | 39.906 | 8.795 | 158.701 |
1977 | 71.848 | 174.669 | 246.517 |
1978 | 50.834 | 216.820 | 267.654 |
1979 | 48.228 | 117.734 | 165.692 |
1980 | 48.627 | 113.090 | 161.717 |
1981 | 37.334 | 109.449 | 146.793 |
1982 | 36.018 | 92.339 | 128.357 |
1983 | 37.625 | 119.221 | 156.846 |
1984 | 51.206 | 119.221 | 170.224 |
1985 | 65.027 | 148.036 | 213.863 |
1986 | 82.923 | 189.187 | 272.110 |
Có thể bạn quan tâm!
- Những Nhân Tố Mới Tác Động Tới Quan Hệ Thương Mại Việt Nam – Nhật Bản
- Cấu Trúc An Ninh Khu Vực Đông Nam Á Và Xung Đột Giữa Trung Quốc Và Nhật Bản
- Hiệp Định Đối Tác Toàn Diện Asean – Nhật Bản (Ajcep)
- Kim Ngạch Mậu Dịch Việt Nam – Nhật Bản Giai Đoạn 1998-2007
- Kim Ngạch Hàng Hóa Xuất Khẩu, Nhập Khẩu Và Cán Cân Thương Mại Việt Nam- Nhật Bản Giai Đoạn Năm 2005- 2012 Và 11 Tháng Năm 2013
- Những Thuận Lợi Khi Thâm Nhập Vào Thị Trường Nhật Bản
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Bước sang năm 1979, do nhiều yếu tố phi kinh tế tác động nên mậu dịch song phương của hai nước có sự giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu chỉ còn 50 triệu USD, nhiều hợp đồng làm ăn bị hoãn lại. Lý do cơ bản là vì các năm này, Nhật bản không vượt ra khỏi áp lực chính trị vì ảnh hưởng dư luận phản đối của các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới mà đứng đầu không phải ai khác là Mỹ. Về thực trạng diễn biến quân sự, chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc qua cuộc
chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc dẹp bỏ chế độ Pôn-Pốt của Việt Nam ở Campuchia phía Tây Nam, cộng thêm một số vấn đề khác nữa… đã dẫn đến quyết định tối cao của Bộ ngoại giao Nhật Bản ngày 8/1/1987, là sẽ hoãn viện trợ cho Việt Nam cho đến khi nào các vấn đề trên được giải quyết ổn thoả. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ đình chỉ mọi cuộc tiếp xúc ngoại giao hoặc tài trợ nhân đạo. Nói cách khác, đồng thời với việc đình chỉ tài trợ kinh tế, Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì sự giúp đỡ nhân đạo cho việt Nam trong suốt thời gian từ năm 1979 đến trước khi nối lại tài trợ ODA toàn diện cho Việt Nam năm 1992.
Từ năm 1983 – 1986, quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản có xu hướng gia tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu được đẩy mạnh, điều này xuất phát từ nhu cầu kinh tế của cả đôi bên như: Việt Nam muốn có các sản phẩm hàng hoá công nghiệp cần thiết, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu, các thiết bị công nghệ hiện đại, phục vụ cho việc CNH - HĐH đất nước. còn về phía Nhật Bản, họ lại muốn khai thác tài nguyên thiên nhiên, thị trường, lao động… của Việt Nam. Do vậy mà tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 214 triệu USD vào năm 1985. Trong đó, Việt Nam xuất sang Nhật Bản những sản phẩm thô có giá trị thấp và nhập từ Nhật những hàng hoá có hàm lượng “chất xám” cao.
2.1.2. Giai đoạn 1987 – 1991
Đây là giai đoạn " lạnh nhạt " và đầy khó khăn đã diễn ra trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Nguyên nhân chủ yếu vì vấn đề Campuchia. Do không đồng quan điểm với Việt Nam, phía Nhật Bản đã đơn phương ngừng các mối quan hệ chính thức , đông kết các khoản viện trợ đã cam kết, đưa ra yêu cầu Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia làm điều kiện để phía Nhật mở lại viện trợ. Mặt khác, Nhật Bản đã phối hợp với Mỹ và phương Tây thực hiện bao vây cấm vận kinh tế Việt Nam, ngăn cản các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế cho Việt Nam vay tiền... . Tuy nhiên, Nhật Bản khi này đã luôn mong muốn thực thi một