Trước làn sóng cách mạng quyết liệt ở các đồn điền cao su, Mỹ-Diệm trong thời gian đầu (1954-1955) còn yếu thế nên chưa mạnh tay khủng bố phong trào cách mạng. Mỹ-Diệm chỉ dùng những thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp bằng thuyết cần lao nhân vị, tung hàng viện trợ Mỹ mua chuộc lôi kéo công nhân. Những khẩu hiệu mị dân như: “cải tiến cần lao”, “đồng tiến xã hội”, “tư sản hoá vô sản” “chủ và thợ cùng sống trong hoà bình thịnh vượng”[31;342]. Mặt khác, Mỹ-Diệm ra sức quy tập lực lượng, hạn chế thế lực của thực dân Pháp, thực thi bộ máy nguỵ quyền cơ sở để khống chế các đồn điền.
Để có thành tích báo cáo, và nhận viện trợ của Mỹ, Diệm tranh thủ thời gian tước đoạt đất đai, lập ra những khu “Dinh điền” cho hàng vạn người kinh theo đạo Thiên Chúa và các dân tộc ít người từ các tỉnh phía Bắc như: Hoa, Nùng, Tày, Mường di cư vào Thủ Dầu Một lập nghiệp, hầu làm hậu thuẫn chính trị cho cái gọi là “Đệ nhất cộng hoà” tại miền Nam Việt Nam hồi bấy giờ. Đồn điền cao su là môi trường rộng và phù hợp để lượng người di cư này mưu sinh.
Ngay sau khi các gia đình di cư vào sống trong các đồn điền cao su, Ban lãnh đạo quận, huyện đã vận động công nhân cũ đến thăm hỏi các gia đình mới với cử chỉ nghĩa tình. Những giúp đỡ về cái ăn, cái ấm, chăm sóc ốm đau đã khêu gợi lên tình cảm yêu thương và đoàn kết. Người dân di cư mới đến sớm nhận thức rõ tình cảnh khốn khổ ở đồn điền, âm mưu của giới chủ cao su và Mỹ-Diệm. Tình cảm giữa công nhân, người dân địa phương và người di cư ngày càng gần gũi hơn. Họ sớm trở thành cộng đồng “lương giáo đồng tâm”, “lương giáo đoàn kết”, đoàn kết đấu tranh đòi các quyền lợi thiết thực về ăn, ở hàng ngày. Sự cố kết này đã phá tan được âm mưu chia rẽ của Mỹ- Diệm, và thể hiện sự hòa hợp dân tộc lâu bền.
Đi cùng với phong trào đấu tranh của công nhân cao su, phong trào đấu tranh của nông dân người kinh và người dân tộc đòi giữ đất, đòi giảm tô, chống cướp đất, chống tăng tô thuế, chống bắt đi phu đi lính cũng diễn ra quyết liệt. Do đặc điểm riêng về tính cách, người dân tộc không tiến hành những cuộc đấu tranh trực tiếp quy mô lớn với chủ. Họ thường sử dụng hình thức đấu tranh linh hoạt như “thỉnh nguyện” (cầu xin), hoặc làm lơ không chấp hành, hoặc khất dần rồi bỏ qua luôn, không làm những việc chủ bắt buộc…[85;65] Mặc dầu vậy, những cuộc đấu tranh của họ vẫn diễn ra dai dẳng và quyết liệt, đặc biệt là những cuộc đấu tranh chống cướp đất. Người dân tộc thiểu số đã giữ lại được toàn bộ đất đai của mình không để cho Mỹ-Diệm biến thành đồn điền
cao su như vùng An Khương, An Quý 1, An Quý 2, Sóc Xoài… Ở các đồn điền, công nhân người dân tộc cũng tham gia vào các cuộc đình công, biểu tình, cũng cử đại biểu tham dự các Hội nghị của công nhân người Kinh. Nhờ đó lương của công nhân người dân tộc trong các đồn điền tại các vùng Thu Bổn, Sóc Xoài, Xa - Cô 28, Sóc Trào, Phú Nương, Bò Com, Sóc Tranh, Phú Lỗ, An Lộc… đã được tăng từ 12 đồng lên 25 đồng, hoặc 28 đồng và 01 lít gạo[209;19].
Ý thức chống Mỹ trong công nhân cao su Thủ Dầu Một rất mãnh liệt. Ở nhiều nơi, công nhân và nông dân đã cùng đứng trong một tổ chức chiến đấu. Thể hiện trong các cuộc đấu tranh chống cướp đất, đuổi nhà để xây dựng căn cứ quân sự, chống viện trợ Mỹ. Về phong trào chống cướp đất, cào nhà nổi bật nhất là cuộc đấu tranh ngày 31 tháng 03 năm 1956 của nông dân và công nhân Phước Long đấu tranh chống cướp đất, được nông nhân nhiều nơi khác ủng hộ. [85;67]
Theo số liệu chưa đầy đủ, tổng kết hai năm 1954, 1955, công nhân đã tiến hành 12 cuộc đình công, biểu tình lớn với khoảng 200.000 lượt người tham gia[186;16], đòi Mỹ- ngụy nghiêm chỉnh thi hành hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, đòi tự do dân chủ. Tiêu biểu nhất là ở đồn điền Quản Lợi và Lộc Ninh.
Như vậy từ 1954 đến 1956, bằng hình thức đấu tranh hợp pháp và bán hợp pháp, phong trào công nhân cao su đã giành được những thắng lợi quan trọng nhờ chuyển hướng kịp thời phương thức đấu tranh phù hợp với tình hình mới, thực hiện tốt công tác xây dựng cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng, động viên được tinh thần cách mạng. Tích cực, phát huy được sức mạnh tổng hợp của đông đảo đội ngũ công nhân cao su và người dân tộc thiểu số Thủ Dầu Một.
Qua những năm tiến hành đấu tranh chính trị đòi Mỹ Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi các quyền dân sinh dân chủ, phong trào đấu tranh của nhân dân Thủ Dầu Một, nhất là của công nhân các đồn điền cao su từng bước phát triển vững chắc, lực lượng cách mạng được giữ vững và ngày càng trưởng thành. Khối đoàn kết trong công nhân và các tầng lớp nhân dân khác được củng cố. Kinh nghiệm đấu tranh được tích luỹ mỗi ngày một nhiều thêm. Đó là cơ sở để Đảng bộ và nhân dân Thủ Dầu Một bước vào cuộc đương đầu với “quốc sách tố cộng, diệt cộng”, đánh phá lực lượng cách mạng của kẻ thù trong giai đoạn tiếp sau.
3.1.3. Đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang, chống “tố cộng” “diệt cộng”, giữ gìn lực lượng và tiếp tục đấu tranh đòi dân sinh dân chủ (1957-1959)
Có thể bạn quan tâm!
- Vừa Đấu Tranh Đòi Quyền Dân Sinh, Vừa Tham Gia Hoạt Động Quân Sự Chống Thực Dân Pháp.
- Công Nhân Cao Su Thủ Dầu Một Trong Giai Đoạn Đấu Tranh Chính Trị Đòi Giặc Thi Hành Hiệp Định Giơnevơ Tiến Lên Vũ Trang Đồng Khởi (1954-1960)
- Tổ Chức, Sắp Xếp Lại Lực Lượng, Tiến Hành Đấu Tranh Chính Trị Đòi Mỹ-Diệm Thi Hành Hiệp Định Giơnevơ, Đòi Các Quyền Dân Sinh, Dân Chủ (1954-1956)
- Công Nhân Cao Su Thủ Dầu Một Trong Giai Đoạn Cùng Dân Và Quân Toàn Miền Nam Đánh Bại Chiến Lược “Chiến Tranh Đặc Biệt” Của Mỹ (1961-1965)
- Phong Trào Đấu Tranh Của Công Nhân Cao Su Bảo Vệ, Phát Huy Thành Quả Đồng Khởi
- Công Nhân Cao Su Thủ Dầu Một Góp Phần Đánh Bại Chiến Lược “Chiến Tranh Cục Bộ” Của Mỹ (1965-1968)
Xem toàn bộ 244 trang tài liệu này.
Những tuyên bố: “không hiệp thương tổng tuyển cử”, “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, và “biên giới Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17” của Ngô Đình Diệm, từ năm 1956, đã đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh ác liệt.
Chiến dịch “Trương Tấn Bửu” (từ ngày 10 tháng 7 năm 1956 đến ngày 24 tháng 2 năm 1957), “chiến dịch Nguyễn Trãi” (ngày 20 tháng 4 đến ngày 20 tháng 11 năm 1958) là uy lực của chiến lược “tố cộng” và “diệt cộng”. Các chiến dịch này đều tập trung đánh phá dữ dội vào các vùng cao su. Các đồn điền cao su như nóng lên trong những năm 1957 đến năm 1959.
Để bổ sung cho chiến lược “tố cộng – diệt cộng”, chính quyền Diệm ban hành hai chính sách lớn “cải tiến nông thôn” và “lập khu dinh điền, khu trù mật” với chủ ý là “bứng dân kháng chiến khỏi quê nhà”, là “cấy” dân theo Diệm vào giữa căn cứ kháng chiến cũ. Còn khu trù mật là địa điểm “dồn dân”. Đặc biệt, sau “chiến dịch Nguyễn Trãi”, công dân vụ của Diệm đã tập trung công nhân và người dân địa phương khuyến dụ “ý nghĩa khu trù mật là xây dựng một xã hội mới để thực thi công bằng, bác ái, đồng tiến xã hội” và “cứ làm, làm mãi, làm cho đến khi nông thôn trở nên pháo đài kiên cố của tự do…”.
Sau cuộc “cải cách điền địa” là cuộc “tái phân công ruộng đất cho công bằng hợp lý, giúp các tá điền trở thành điền chủ…”, Diệm công bố các tiêu chí để làm lợi thế cho chính quyền Diệm, hàng loạt người nghèo vẫn trắng tay, kéo đến đồn điền cao su xin việc, thêm một cơ hội béo bở cho giới chủ người Pháp. Chủ Pháp bắt tay với nguỵ quyền sa thải hàng loạt công nhân lâu năm, thu người mới vào làm việc để trả tiền công thấp hơn.
Do đó ở các đồn điền cao su, số công nhân làm thuê theo hợp đồng lâu năm chỉ còn lại 20-40%. Tỷ lệ nữ lên đến 40-50% trong tổng số công nhân cạo mủ. Công nhân có số chiếm độ 40 đến 50%, còn lại là công nhân tùy dịp. Trên các đồn điền cao su miền Đông Nam Bộ, tỷ lệ thất nghiệp lên đến 30% tổng số công nhân[34;145]
Đầu năm 1957, công nhân cao su đối diện với nạn thất nghiệp và chết chóc… Để tồn tại, công nhân cao su tìm cách đấu tranh hợp pháp chống lại âm mưu và hành động độc ác đó.
Hình thức đấu tranh thời gian này là kết hợp giữa kiến nghị với đình công. Tập trung nhất là ở hai năm 1958 và 1959.
Ngày 15 tháng 01 năm 1958, gần 4.000 công nhân cao su Quản Lợi, Xa Cam, Xa Trạch đình công đấu tranh chống chủ cắt xén quyền lợi công nhân. Liền sau đó, 5.000 công nhân thuộc 3 sở của công ty Đất Đỏ đình công ủng hộ buộc chủ đồng ý trả tiền phụ cấp cho công nhân có mặt hàng ngày 7 đồng (thay vì 5 đồng); trả thưởng năng suất là 0,5 đồng (thay vì cắt bỏ). Kết quả vụ việc đình công này là chủ công ty Đất Đỏ thiệt hại trên 1 triệu đồng[82;250]
Tháng 5 năm 1959, 5.000 công ty cao su Dầu Tiếng làm kiến nghị phản đối chủ sở quyết định truy tố pháp luật đối với công nhân Trần Duy Tân, do anh dám lên tiếng phản đối chủ sa thải đồng nghiệp. Cuộc đấu tranh của công nhân Dầu Tiếng kéo dài đến tháng 9 năm 1959 và được 77 phân bộ nghiệp đoàn công nhân Sài Gòn lên tiếng ủng hộ [82;250].
Tiếng vang từ cuộc đấu tranh của công nhân Dầu Tiếng đã tiếp thêm lòng can đảm cho cho 1.500 công nhân Xa Cát và 5.000 công nhân Lộc Ninh đình công chống chủ sở sa thải công nhân lâu năm vào tháng 12 năm 1959[82;250].
Khu vực đồn điền Thuận Lợi, chi bộ “mật”, có Bảy Chiến, Út Lộc, Ba Thiều… đã dựng được cơ sở quần chúng ở các làng cao su. Chi bộ chưa tổ chức hoạt động chống Mỹ-Diệm cụ thể do thế lực Mỹ-Diệm dày đặc, nhưng đã hướng dẫn công nhân ngầm phản đối các khuyến dụ có mục đích xuyên tạc, vu khống cách mạng ở các điểm tập trung tại Phước Long. Công nhân Thuận Lợi lúc “học tập tố cộng” đã đồng hô “Việt Cộng” thay cho lời hò hét “diệt cộng” từ nhóm lính khuyến dụ. Nhóm lính bực tức nhưng bất lực, không làm gì được với tập thể đông phản đối này.[14;212]
Tại Bình Long, ngày 14 tháng 11 năm 1958, 14.000 công nhân cao su Bình Long đã tổng bãi công 04 ngày, phản đối Bộ nội vụ và Bộ lao động của chính quyền nguỵ Sài Gòn đã ra lệnh trục xuất cán bộ nghiệp đoàn ra khỏi sở. Trước sức mạnh đoàn kết đấu tranh của công nhân, nguỵ quyền Sài Gòn phải nhượng bộ[85;112]. Đến ngày 26 tháng 10 năm 1959, Mỹ-Diệm tổ chức Tết Cộng Hoà, đem quân đội, cảnh sát, chính quyền địa phương đến Minh Thạnh tổ chức “tố cộng”. Chúng vào từng nhà ép buộc công nhân đi dự. Công nhân không đi bị chúng khủng bố. Hàng trăm đại biểu công nhân đến dinh tỉnh trưởng phản đối, đòi quyền tự do dân chủ.[14;212]
Năm 1957 đến năm 1959, công nhân cao su đấu tranh chính trị mạnh. Nhưng những cuộc đấu tranh này còn hạn chế bó hẹp riêng lẻ trong phạm vi từng đồn điền, do chiến
dịch khủng bố của giặc dồn dập. Lực lượng cách mạng ở đồn điền mất mát rất lớn. Tại một số nơi như khu vực thị trấn Dầu Tiếng đều là cơ sở trắng[98;131].
Không chỉ ở Thủ Dầu Một mà tình hình phong trào toàn miền Nam đang bị núng thế qua những chiến dịch khủng bố, “tố cộng”, “diệt cộng”. Để gầy dựng lại phong trào, gây tiếng vang về lực lượng vũ trang cách mạng, Xứ ủy Nam Bộ chấp thuận đề nghị của Đảng ủy quân sự Miền Đông mở trận đánh lớn. Vào lúc 24 giờ đêm ngày 10 trạng sáng 11 tháng 08 năm 1958, lực lượng vũ trang bí mật tập kích vào chi khu Dầu Tiếng. Tham gia chiến trận này có đông đảo công nhân cao su làm nhiệm vụ trinh sát, vẽ sơ đồ, phụ trách hậu cần phục vụ trận đánh. Điều bất ngờ đối với giặc là lực lượng cách mạng đã chiếm được mục tiêu, làm chủ nhiều giờ, thu được nhiều súng đạn. Trận Dầu Tiếng không chỉ đạt được mục tiêu quân sự mà còn thành công trong việc xác định chính sách của cách mạng đối với chủ đồn điền người Pháp. Lực lượng ta bắt được 2 chủ đồn điền người Pháp đưa vào căn cứ. Cả hai đều cam kết không đàn áp công nhân và đóng thuế cho cách mạng [34;139].
Chiến dịch khủng bố, “tố cộng”, “diệt cộng” và luật 10/59 của Mỹ-Diệm đối với tư bản Pháp là món lời khỏi phải đầu tư, vì với luật 10/59 nguỵ quyền sẽ làm cái việc mà chúng rất cần: loại trừ cộng sản, loại trừ những người đấu tranh ra khỏi hàng ngũ công nhân cao su. Những quyền lợi mà công nhân cao su đấu tranh được từ sau năm 1954 bị hủy bỏ. Công nhân vẫn sống và làm việc trong điều kiện căng thẳng. Họ thường xuyên bị đổ tội là “Cộng sản dùng nghiệp đoàn để gây bất ổn xã hội, lật đổ chính quyền”. Trần Quốc Bửu chiếu luật 10/59 tuyên bố giải tán tất cả các tổ chức công khai “đã bị cộng sản lợi dụng” và đưa hàng loạt chiến sĩ cách mạng và công nhân cao su yêu nước lên máy chém.
Tình thế khủng bố và giết chóc quyết liệt lúc này đã làm cho công nhân cao su không còn kiên nhẫn đấu lý, đấu lời với chính quyền Mỹ-Diệm được nữa. Thời gian này đã nung nấu họ những quyết tâm “vũ trang” cách mạng để cứu nước, cứu mình.
3.1.4. Phong trào đồng khởi của công nhân cao su Thủ Dầu Một năm 1960
Tháng 1 năm 1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp, thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”, là nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15. Con đường của cách mạng miền Nam cần
chọn để đi là “dùng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân để đánh đổ Mỹ- Diệm” [42;81,82]
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với quân dân miền Nam. Chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam sử dụng và tiến hành song song hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, mà còn đáp ứng được đòi hỏi cấp bách của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tấn công.
Ngày 30 tháng 1 năm 1960, Hội nghị bất thường của Tỉnh Ủy Thủ Dầu Một họp tại An Điền (Bến Cát), đã triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 và bàn về ngày “Đồng Khởi”. Sau khi phân tích và đánh giá tình hình, Hội nghị đã quyết định chọn ngày 25 tháng 02 năm 1960 làm ngày Đồng Khởi toàn tỉnh [15;191].
Chuẩn bị đồng khởi, Khu ủy miền Đông đã chủ trương các đồn điền cao su thực hiện bốn vấn đề lớn:
- Khẩn trương phát tin rộng trong công nhân những chủ trương chuyển hướng, “kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang”, vừa “đánh đổ nguỵ quyền, vừa tạo áp lực với tư bản đồn điền” để giới chủ đồn điền thay đổi chế độ lao động đối với công nhân, nới tay khủng bố công nhân cách mạng.
- Tổ chức cho công nhân vào một đoàn thể thống nhất, lấy tên là “công hội”. Tổ chức thống nhất “công hội” lập ra để phát triển Đảng, Đoàn, xây dựng lực lượng vũ trang.
- Gấp rút chọn những công nhân nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
- Phương châm hoạt động cách mạng trong công nhân đồn điền là hợp pháp và bất hợp pháp, bí mật. Việc làm hợp pháp là bố trí người cách mạng, đi làm lính bảo an để lấy vũ khí bổ sung phương tiện chiến đấu cho các đơn vị lực lượng vũ trang. Các người “lính bảo an” cách mạng mà tổ chức đã phân công làm nhiệm vụ bên trong và bên ngoài đồn điền đã đẩy phong trào đấu tranh của công nhân mạnh lên[34;149].
Tin đồng khởi Bến Tre và tin tức các lực lượng vũõ trang giải phóng lập chiến công lịch sử tại Tua Hai như phát pháo lệnh đồng khởi toàn miền Đông Nam Bộ.
Đồng khởi vùng cao su được ghi nhận qua các đợt:
Đợt đầu, đồng khởi vùng cao su có hai yêu cầu là nổi dậy diệt ác và tuyên truyền. Đêm ngày 25 tháng 2 năm 1960, tại Dầu Tiếng, mỗi người mỗi việc. Đêm tối đến, các làng công nhân khua thùng, gõ mõ, đánh trống vang từng hồi, từng lượt. Công nhân
phát loa hai từ “lực lượng”, hô vang động khẩu hiệu: “Hòa bình, thống nhất, tự do, cơm áo” làm nhóm dân vệ, cai ác, thám báo bỏ nhiệm vụ, lẩn trốn[34;161].
Đợt 2, một đêm tháng 3 năm 1960, Ban chỉ đạo đồng khởi đã tổ chức nhiều mũi công tác, phát động vũ trang tuyên truyền với khẩu hiệu “Ngô Đình Diệm phải từ chức” ở 22 làng cao su Dầu Tiếng. Công nhân đã cùng lực lượng vũ trang cách mạng bắt 5 tên ác ôn, lập tòa án tại chỗ xét xử, giáo dục 10 tên tay sai, chỉ điểm[34;161].
Qua 2 đợt nổi dậy, khí thế đấu tranh của công nhân càng lên cao. Tháng 5 năm 1960, Ban chỉ đạo đồng khởi đã tiếp tục tổ chức vũ trang tuyên truyền ở từng làng, từng điểm. Kết quả, làng 14 (Dầu Tiếng) đội vũ trang đã bắn hạ 1 lính bảo an khi chúng đàn áp phong trào[31;382]
Tình hình nổi dậy càng lúc càng sôi động hơn, lực lượng đấu tranh mỗi lúc lại tăng thêm. Hội tề, lính kín, chỉ điểm đã hành động lúng túng và có người đã ra thú tội hoặc trốn “lưu vong”. Lính đồn điền thì chưa dám khủng bố đám đông vì lo sợ rằng: “thẳng tay thì sẽ náo động và to chuyện”[34;164]
Phối hợp với phong trào công nhân Dầu Tiếng, Bến Củi, công nhân các làng 2, 5, 7, 8 thuộc đồn điền Lộc Ninh, đồn điền Bù Đốp, Brêlinh cũng đồng loạt nổi dậy, đánh trống, gõ mõ uy hiếp tinh thần Mỹ-nguỵ, truy lùng những nhóm người ác ôn, chỉ điểm giết hại cán bộ cách mạng, phá rã các ban tề nguỵ, làm chủ làng[31;384-385].
Tại khu vực Phước Long, công nhân cao su, đồng bào dân tộc đã quyên góp lương thực ủng hộ lực lượng vũ trang đang trong quá trình xây dựng, giúp xây dựng căn cứ, mở đường liên lạc đón lực lượng chi viện từ miền Bắc vào. Với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, công nhân, đồng bào dân tộc ở các khu dinh điền Phước Long I, Phướng Long II, đã nổi dậy phá tề, phá rã bộ máy kìm kẹp của Mỹ-nguỵ[31;385].
Tại Hớn Quản, Lộc Ninh, Huyện ủy đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang công nhân trong hầu hết các làng sở: Lộc Ninh, Lộc Hưng, Minh Thạnh, Xa Cam, Xa Cát, Sacô 6, Téùch-nich, Tân Khai, mỗi nơi một trung đội tập trung, sở Phước Hoà lập một đội du kích. Thuận Lợi, Bù Đốp, Đa Kia xây dựng được đội vũ trang nữ là công nhân cao su người dân tộc[31;384].
Trước tình hình công nhân nổi dậy đấu tranh liên tục, chính quyền Diệm phản ứng lại bằng cách đánh phá phong trào công nhân dữ dội. Chúng tuyển chọn một số tên ác ôn thành lập trung đội biệt kích, cử Cả Châu làm chỉ huy. Nhóm biệt kích nguỵ này chuyên lén lút đi đánh đêm, gây nhiều khó khăn cho hoạt động của quân kháng chiến.
Nhiều đơn vị vũ trang của quân kháng chiến hành quân, lọt vào đội hình phục kích của nhóm biệt kích nguỵ, bị đánh bất ngờ, hy sinh. [98;142].
Trước tình hình này, Ban cán sự Đảng lãnh đạo động viên cán bộ, chiến sĩ quyết tâm đánh vào thị trấn, tiêu diệt nhóm biệt kích, thu vũ khí, xây dựng lực lượng. Nhiều đơn vị vũ trang kháng chiến sống trong sự bảo vệ, che chở của công nhân, dựa hẳn vào sự giúp đỡ, nuôi dưỡng của công nhân mà hoạt động. Các chi bộ ở 2 xã Long Nguyên và Thanh An đã cử một lực lượng trên một tiểu đội có súng về phối hợp với đội vũ trang Dầu Tiếng đặt mìn đánh biệt kích địch vào làng 13, phá huỷ một xe quân sự và diệt 30 lính [110;85].
Tình hình thuận lợi, Ban cán sự đồn điền cao su Dầu Tiếng, Lộc Ninh đã lập ra “Ủy ban tự quản”, có vai trò như là một tổ chức chính quyền cách mạng địa phương, làm chủ về chính trị, tiếp tục đấu tranh về kinh tế với giới chủ người Pháp. Chính quyền cách mạng địa phương đã chủ trương, một mặt, tranh thủ giới chủ người Pháp duy trì sản xuất cao su, giải quyết việc làm cho công nhân. Cuối năm 1960, Ban cán sự Dầu Tiếng đã tổ chức được 10 chi bộ đảng, 14 công đoàn viên, trên 300 công nhân nòng cốt[31;381]. Nhiều công nhân cao su được kết nạp vào đảng. Số đảng viên này là những hạt nhân của mọi phong trào đấu tranh. Đứng sau lực lượng chính trị, có những đơn vị vũ trang của miền, của tỉnh ở rừng ở núi. Một vành đai kháng chiến cũ, vùng đất của phong trào nông dân có truyền thống cùng với đất cao su đã hình thành thế trận công nông liên minh trong cuộc chiến đấu mới với kẻ thù: Long Nguyên, Thanh An, Thanh Tuyền, Đôn Thuận, Sóc Lào, Bà Nhã, Dương Minh Châu….[34;186-187]
Phong trào cách mạng của công nhân cao su càng lên cao, thì Mỹ-nguỵ càng tìm mọi cách để đối phó. Mỹ-nguỵ tăng cường công an, cảnh sát, bảo an, quân chủ lực chốt đóng tại các sân bay làm nhiệm vụ thường trực chiến đấu, sẵn sàng khủng bố công nhân.
Lợi dụng tình thế căng thẳng, các chủ đồn điền người Pháp tiếp tục trì hoãn, lờ đi việc thi hành nghĩa vụ đóng thuế cho chính quyền cách mạng theo quyết định của Ủy ban tự quản. Ủy ban tự quản tìm kế bắt 02 đại diện người Pháp giam 24 tiếng đồng hồ, đưa ra cho hai người một số điều kiện, và cầm thư kiến nghị đưa cho chủ công ty Mít- sơ-lanh. Trong thư, Ủy ban tự quản yêu cầu phải giải quyết các vấn đề:
“1. Không được đánh đập, cúp phạt, sa thải công nhân.