Đến giữa tháng 6 – 1963, quân và dân Khánh Hòa phá tan chiến dịch Thiềm Đầu Thủy của quân đội VNCH nhằm đưa 15.000 dân miền núi dồn về các khu tập trung ở đồng bằng. Phối hợp với chống càn ở căn cứ, các đội vũ trang ở đồng bằng hoạt động mạnh, diệt ác, phá kìm, xây dựng cơ sở cách mạng ở đồng bằng, đô thị.
2.2.2.6. Ở Ninh Thuận
Đầu năm 1961, Tỉnh ủy chủ trương vũ trang tuyên truyền diệt ác, phá kìm, xây dựng và phát triển phong trào quần chúng, mở rộng cơ sở với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Ở phía Nam tỉnh, Tỉnh ủy chủ trương “mở vùng”, lấy Sơn Hải làm thí điểm. Lực lượng vũ trang tuyên truyền bí mật vào các ấp Hòa Thủy, Từ Tâm, Long Bình, An Thạnh, Thành Tín, Tuấn Tú, Vĩnh Tường, Từ Thiện hoạt động. Giữa năm 1961, lực lượng vũ trang tỉnh tiếp tục tấn công phá banh ấp Xóm Bằng, đưa một số dân về sống hợp pháp ở vùng CK19 (Am Đá Hang, Núi Chùa, Cầu Gãy). Song song với hoạt động phá ấp, phá kìm, lực lượng cách mạng vận động quần chúng, xây dựng cơ sở trong các ACL nhằm làm lỏng, rã thế kìm của chính quyền VNCH.
Tháng 10 – 1961, Đại đội 305 đột nhập vào ấp Nhuận Đức, Trường Sanh, để tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy phá ACL, phối hợp với các tổ công tác liên tục đột nhập ấp, diệt ác, phá rã nhiều ban, hội tề. Ngày 08 – 06 – 1962, một trung đội vũ trang tỉnh tập kích bất ngờ ấp Sơn Hải, diệt tề điệp, làm chủ suốt ngày đêm trong ấp.
Ở vùng đồng bằng, quân đội VNCH tập trung lực lượng đẩy mạnh càn quét vào các ấp Vĩnh Hy, Thái An, Mỹ Hòa, Vĩnh Trường, Từ Thiện. Lực lượng cách mạng bên trong và bên ngoài kết hợp tấn công bằng ba mũi, đồng bào kiên quyết không chịu lập tề (địch lập lên ta lại phá). Tuy nhiên, đến cuối năm 1962, chính quyền VNCH đã lập lại thế kìm trên các ấp mới giải phóng, làm chủ hoặc đang tranh chấp. Tuy chính quyền VNCH rào làng lập ACL, đóng đồn bốt, lập được tề, nhưng cách mạng vẫn bám hoạt động, nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh chống dồn dân lập ACL. Ở một số ấp, bọn tề điệp ban ngày có mặt, nhưng ban đêm thì rút vào đồn hoặc vào thị xã trốn tránh.
Sau hai năm tích cực chống, phá kế hoạch gom dân lập ACL của chính quyền VNCH, do lực lượng cách mạng ở địa phương còn yếu, chưa hỗ trợ kịp thời cho ba mũi tiến công tại chỗ nên có nhiều ACL bị phá, sau đó bị quân đội VNCH tái chiếm, lập lại. Đến giữa năm 1963, tại Ninh Thuận, chính quyền VNCH đã lập xong 125/127 ACL với gần 99% dân số [5, tr.305]. Vì vậy, Ninh Thuận là tỉnh mà chính quyền VNCH xếp vào “nhóm kiểu mẫu” về xây dựng ACL.
Mặc dù chính quyền VNCH thành công trong việc gom dân vào ACL nhưng không nắm được dân, lực lượng cách mạng vẫn được bảo toàn và thường xuyên ra vào ấp để xây dựng cơ sở… Đây là điều kiện thuận lợi để lực lượng cách mạng tiếp tục chống, phá ACL trong thời gian tiếp theo.
2.2.2.7. Ở Bình Thuận
Đêm 12 – 09 – 1961, đơn vị vũ trang 2/9 của tỉnh tấn công, phá trụ sở xã Lương Sơn, bắt tề điệp, diệt ác ôn, xây dựng cơ sở trong quần chúng. Đến 16 giờ chiều ngày 13 – 09 – 1961, lực lượng vũ trang tỉnh và cán bộ tấn công ấp Bình Nhơn, Bình Thiện (Nhơn Thiện), ấp Bàu Thiêu (Thiện Nghiệp) để tuyên truyền, phát động quần chúng truy bắt tề điệp, diệt ác ôn, lập chính quyền tự quản. Sau gần một tháng hoạt động, lực lượng cách mạng đã giải phóng hoàn toàn hai xã Nhơn Thiện, Thiện Nghiệp với gần 10.000 dân; tổ chức lại thành 6 xã: Hồng Lâm (Bình Nhơn), Hồng Chính (Bình Thiện), Hồng Thắng (Hưng Long), Hồng Trung (Bàu Thiêu), Hồng Thanh (Rừng Ngang), Hồng Thịnh (Bàu Tàng, Bàu Me, Bàu Son, Bàu Sen); đẩy mạnh tranh chấp 4 ấp: Long Phú, Long Thạnh, Long Hoa, Bàu Ốc; phá lỏng, rã bộ máy kìm kẹp của chính quyền VNCH ở các ấp Lương Trung, Lương Bình (Lương Sơn), Hiệp An, Hiệp Bình, Hiệp Hòa, Hiệp Thành (Hồng Thái). Đêm ngày 13 – 10 – 1961, Trung đội đặc công Đại Dương diệt đồn Cỏ Mồm, khu Gia Le (Lăng Cốc), phá hai khu tập trung, đưa dân về lại núi rừng. Đại đội Hoành Sơn cùng với lực lượng vũ trang huyện tấn công quân đội VNCH đang đóng giữ các ấp dọc đường 8, quần chúng nổi dậy phá banh hàng rào, về lại vườn đất cũ. Bộ máy kìm kẹp của chính quyền VNCH ở các ấp Bình Lâm, Bình An, Tân Điền, Tân An, Tân Nông, Phú Bình, Đại Nẫm, Phú Hội bị phá rã, phá lỏng từng mảng. Đến cuối tháng 11 – 1961, vùng giải phóng Bắc Hàm Thuận có hơn 5.000 dân.
Tháng 06 – 1962, Tỉnh ủy và Ban Quân sự tỉnh đề ra nhiệm vụ trung tâm là chống, phá ấp chiến lược dọc tuyến Quốc lộ 1 và Liên tỉnh lộ 8, Hàm Tân. Quán triệt tinh thần trên, các huyện, thị cùng với các đơn vị vũ trang đẩy mạnh tiến công địch. Đại đội Lê Hồng Phong cùng với bộ đội địa phương tiến công vào các ấp Rạng, Long Phú, Long Hoa diệt ác ôn, phát động nhân dân phá trên 5.000 mét rào ACL ở huyện Thuận Phong; phá lỏng các ACL Hiệp An, Hiệp Bình, Hiệp Thành, Hiệp Hòa (khu Lê Hồng Phong). Đại đội Hoành Sơn phối hợp với bộ đội địa phương huyện Hàm Thuận liên tục tiến công vào các ACL trên đường 8 và Đại Nẫm, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá banh bộ máy kìm kẹp, phá ranh rào. Ngày 04 – 08 – 1962, bộ đội huyện Hàm Tân tấn công bót dân vệ và trụ sở xã Tân Hiệp, diệt tề điệp, ác ôn; phát động quần chúng nổi dậy phá banh các ACL Phong Điền, Hiệp Nghĩa, Hiệp Phước, Hiệp Trí và Hiệp Tín (xã Tân Hiệp). Để đối phó, địch liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân như: “Sơn Dương 1” “Sơn Dương 2”, “Bình Lâm” nhằm đẩy mạnh gom dân vào ACL. Phát huy những thắng lợi đã giành được, các Đại đội 486, 489 hỗ trợ nhân dân Long Hoa nổi dậy phá ACL, tiến công các ACL Tà Nung, Bàu Ốc, Xa Ra, Tùy Hòa. Ở các huyện Hàm Tân, Hàm Thuận, Thuận Phong, Bắc Sơn và thị xã Phan Thiết, lực lượng vũ trang phá banh các ACL Cây Găng, Phong Điền, Hiệp Phước, Hiệp Nghĩa, Tam Tân, Hiệp An; phá lỏng và phá rã các ACL trên đường số 8, Đại Nẫm; đánh phá các ACL Cà Lon, Bá Ghe, Gia Hòa đưa một số đồng bào dân tộc về buôn, rẫy. Đến năm 1963, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy địa phương, quân và dân tỉnh Bình Thuận đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận, phá banh 13 ACL, phá lỏng 36 ACL, 550 binh sĩ VNCH rã ngũ [3, tr.73-74].
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Số Ấp Chiến Lược Được Lập Ở Các Tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ Tính Đến Ngày 13 – 12 – 1962
- Đấu Tranh Chống, Phá Ấp Chiến Lược Của Quân Và Dân Các Tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ
- Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ 1961 – 1965 - 11
- Quá Trình Triển Khai Chương Trình Ấp Tân Sinh Ở Các Tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ
- Chủ Trương Của Tỉnh Ủy Các Tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ
- Phong trào chống, phá ấp chiến lược ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ 1961 – 1965 - 15
Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.
Như vậy, bằng sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chỉ thị của Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam, Khu ủy V, Khu ủy VI, quân và dân các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ đã liên tục phát triển phong trào chống, phá ACL ngày càng quyết liệt hơn. Ở Khu V, tính từ tháng 07 đến tháng 10 – 1963, riêng Quảng Ngãi và Bình Định đã “tổ chức 1.524 cuộc đấu tranh trực diện với địch, với hơn một triệu lượt người tham gia. Nhân dân phá đi phá lại 1.876 lần ấp chiến lược (phá banh hơn 400 ấp trong tổng số 900 ấp địch xây dựng trên địa bàn này)” [52, tr.254]. Ở Khu VI, tính đến cuối tháng 11 – 1961, ba tỉnh đồng bằng ven biển Cực Nam Trung Bộ
đã xây dựng và phát triển cơ sở cách mạng trong 223 thôn ở 79 xã (trong tổng số 610 thôn, 135 xã). Khánh Hòa mở ra một số thôn ấp làm chủ và lỏng rã kìm, Ninh Thuận có 6 xã giải phóng, Bình Thuận có 10 xã giải phóng và làm chủ với hơn
25.000 dân. Nhờ đẩy mạnh phong trào đấu tranh vũ trang lên tương đối đều khắp, liên tục, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, binh vận nên đã cản phá nhiều cuộc hành quân càn quét, gom dân, lập ACL, giữ vững vùng căn cứ và vùng giải phóng, tiêu biểu nhất là tỉnh Bình Thuận - “lá cờ đầu của phong trào thi đua với Ấp Bắc của Khu VI” [52, tr.261].
Tiểu kết chương 2
Phong trào “Đồng khởi” ở miền Nam đã giáng đòn nặng nề vào chính sách thực dân kiểu mới Mỹ, đồng thời làm cho chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm bị lung lay tận gốc. Để tiếp tục thống trị miền Nam, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiếp tục triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với “quốc sách ấp chiến lược” nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã, ấp; tách nhân dân ra khỏi cách mạng để tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình bình định miền Nam Việt Nam. Thực hiện âm mưu này, từ năm 1961 đến năm 1963, Mỹ - chính quyền VNCH đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp quân sự là chủ yếu để mở các cuộc hành quân càn quét, triệt hạ xóm làng, nhà cửa, ruộng vườn… của nông dân để buộc họ phải vào sinh sống trong các ACL, trong đó Khu V và Khu VI là một trong những trọng điểm bình định dồn dân lập ACL. Tính đến tháng 04 – 1963, ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, chính quyền VNCH đã lập được 1.945 ACL trong tổng số 2.569 ACL dự định sẽ lập.
Dưới sự lãnh đạo kịp thời, sáng tạo của Bộ Chính trị, BCH TW Đảng, TW Cục miền Nam, Khu ủy V, Khu ủy VI, phong trào chống, phá ACL ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ đã diễn ra sôi nổi, quyết liệt và rộng khắp. Tuy nhiên, từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962, vì chưa có nhiều kinh nghiệm nên Đảng bộ nhiều địa phương chỉ chú trọng đấu tranh vũ trang từ bên ngoài vào mà chưa chú trọng kết hợp với đấu tranh từ bên trong để phá ấp, phong trào đấu tranh của quần chúng diễn ra lẻ tẻ, chưa đều khắp, chưa có sự phối hợp chặt chẽ ở từng địa phương.
Bên cạnh đó, ta cũng phạm một số thiếu sót, sai lầm như: thiếu tinh thần tiến công liên tục, chưa tích cực bám dân, một số cán bộ đảng viên còn ngại gian khổ, chưa hiểu hết mục đích của việc phá ACL, còn nặng về phá rào, lấp hào; công tác xây dựng Đảng ở cơ sở chưa được coi trọng, một số nơi còn xem nhẹ chiến tranh du kích, chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của quân đội VNCH làm cho quần chúng nhân dân lúng túng nên khi nhiều ACL bị phá thì không lâu sau đó đã bị địch phản công và nhanh chóng tái lập lại ACL.
Sang năm 1963, mặc dù quân đội VNCH liên tiếp mở những trận càn quét lớn đánh phá vào vùng giải phóng, vùng căn cứ, song nhờ có sự chỉ đạo kịp thời và toàn diện của Bộ Chính trị, TW Đảng, TW Cục miền Nam, Khu ủy V, Khu ủy VI và Tỉnh ủy các địa phương, tinh thần đấu tranh kiên trung của các lực lượng cách mạng nên phong trào chống, phá ACL ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ vẫn được duy trì và phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức đấu tranh sôi nổi, rộng khắp, có sự kết hợp chặt chẽ các cuộc nổi dậy của quần chúng ở bên trong với các cuộc tấn công vũ trang từ bên ngoài vào, công tác binh vận ngày càng được chú trọng và phát triển. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng, lực lượng quân sự, chính trị từng bước khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục phát triển lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân. Đến cuối năm 1963, quân và dân các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ đã cơ bản đánh bại các kế hoạch bình định bằng ACL của Mỹ và chính quyền VNCH trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1963, bước đầu làm thất bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, góp phần quan trọng cùng với nhân dân miền Nam đánh bại kế hoạch Staley - Taylor, tạo nền tảng vững chắc để chống, phá ấp tân sinh trong những năm 1964 – 1965.
Chương 3
PHONG TRÀO CHỐNG, PHÁ ẤP TÂN SINH Ở CÁC TỈNH DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ TỪ NĂM 1964 ĐẾN NỬA ĐẦU NĂM 1965
3.1. CHƯƠNG TRÌNH LẬP ẤP TÂN SINH CỦA MỸ - CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM CỘNG HÕA
3.1.1. Tình hình miền Nam sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm (11 – 1963)
Trước những thắng lợi liên tiếp của cách mạng miền Nam, trong đó có phong trào chống, phá ACL trong năm 1963 đã làm cho chính quyền VNCH lâm vào tình trạng suy yếu, khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt. Những thắng lợi của cách mạng miền Nam cũng đã góp phần tác động sâu sắc đến nhận thức của quần chúng nhân dân, nhất là các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng ở miền Nam. Chính sách “Thiên Chúa giáo hóa” và đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm đã làm nảy sinh làn sóng đấu tranh quyết liệt của giới tăng ni, Phật tử trên toàn miền Nam với đỉnh cao là sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức vị pháp vong thân (11 – 06 – 1963). Như vậy, cùng với phong trào chống, phá ACL, phong trào Phật giáo và các tầng lớp nhân dân chống Ngô Đình Diệm đã làm cho tình hình chính trị ở miền Nam mất ổn định trầm trọng, trong đó nhân tố tác động quan trọng, cơ bản là thắng lợi của phong trào chống, phá ACL năm 1963. Trước tình hình kế hoạch Staley - Taylor bị thất bại, phong trào đấu tranh ở thành thị dâng cao, mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm ngày càng tăng, Mỹ buộc phải “thay ngựa giữa dòng” hòng thoát khỏi thất bại hoàn toàn. Bộ Quốc phòng Mỹ nhận định “phải có sự thay đổi căn bản trong bộ máy chính quyền Diệm, loại bỏ những gì cản trở việc thực hiện chỉ thị của Mỹ, nhằm nhanh chóng “cải thiện” tình hình miền Nam Việt Nam” [128, tr.127].
Được sự đồng ý của Mỹ, một số tướng lĩnh cao cấp trong quân đội VNCH đã cùng nhau lập ra “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” và tiến hành cuộc đảo chính quân sự lật đổ anh em Diệm - Nhu (01 – 11 – 1963), thành lập một chính quyền mới
do tướng Dương Văn Minh đứng đầu. Đây là mốc đánh dấu sự thay đổi của chính quyền VNCH từ chính quyền dân sự sang chính quyền quân sự. Bắt đầu từ đây, chính quyền VNCH liên tiếp lâm vào tình trạng khủng hoảng do tranh giành quyền lực giữa các phe phái và ngày càng đẩy Mỹ lún sâu hơn vào cuộc chiến tranh Việt Nam để giúp đỡ các chính thể ở miền Nam Việt Nam khỏi bị sụp đổ.
Sau khi anh em Diệm - Nhu bị lật đổ thì chỉ ba tuần sau (ngày 22 – 11 – 1963), Tổng thống J. Kennedy cũng bị ám sát. Sự kiện này không những gây chấn động toàn nước Mỹ mà còn có ảnh hưởng lớn đến những cố gắng của chính quyền Mỹ đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, làm cho chính quyền VNCH thêm hoang mang, lo sợ.
Trong diễn văn nhậm chức Tổng thống Mỹ, L. Johnson khẳng định sẽ tiếp tục hành động để bảo đảm sự thống nhất hoàn toàn trong các chính sách của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, tiếp tục thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với các âm mưu và thủ đoạn của nó có điều chỉnh một số điểm.
Để thực hiện âm mưu của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, tháng 01 – 1964, Tổng thống L. Johnson quyết định cử tướng W. Westmoreland thay tướng P. Harkins làm Tư lệnh các lực lượng quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam; tướng M. Taylor thay C. Lodge làm đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, tăng cường lực lượng cố vấn 22.400 người (1963) lên 26.200 người (1964), trong đó có 10.400 cố vấn quân sự Mỹ, quân đội VNCH tăng từ 417.000 người với 206.000 chủ lực và 211.000 địa phương quân (1963), lên
561.000 người với 267.000 chủ lực và 294.000 địa phương quân (1964). Cùng với việc tăng nhanh quân số, trang bị kĩ thuật cũng được tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng: máy bay năm 1963 có 627 chiếc (có 344 trực thăng) sang năm 1964 tăng lên 989 chiếc (có 392 trực thăng); xe cơ giới tăng từ 582 chiếc năm 1963 lên 732 chiếc năm 1964; pháo từ 248 khẩu (1963) lên 415 khẩu (1964); pháo các loại từ 348 khẩu năm 1963 lên 700 khẩu năm 1964 [52, tr.333-334], trong đó, ở Nam Trung Bộ, lực lượng quân đội VNCH tiếp tục tăng, đến giữa năm 1964 có trên
200.000 quân (5 chiến đoàn ở Quân đoàn 1 và 9 chiến đoàn ở Quân đoàn 2) [73, tr.323].
Bên cạnh việc đẩy mạnh viện trợ quân sự cho chính quyền VNCH, ngày 17 – 03 – 1964, Tổng thống L. Johnson chính thức thông qua “Báo cáo về tình hình Nam Việt Nam và những biện pháp nhằm thay đổi chiều hướng cuộc Chiến tranh đặc biệt ở Việt Nam” do R. Mc. Namara soạn thảo, dựa tên cơ sở hai lần điều tra thực tế vào tháng 12 – 1963 và tháng 03 – 1964 ở miền Nam Việt Nam. Đây là Bản bị vong lục về tình hình an ninh quốc gia số 228 (NSAM 228) của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, mà ta thường gọi là kế hoạch Johnson - McNamara.
Trong phần nhận xét về tình hình Nam Việt Nam, báo cáo nêu rõ:
“Quốc sách ấp chiến lược - xương sống của Chiến tranh đặc biệt thời Diệm
- Nhu quá rườm rà, nặng về lý thuyết, thực tế đã không đạt được mục tiêu; đặc biệt là đã gây quá nhiều phiền toái, kêu ca trong nhân dân. Hơn nữa, diễn biến tình hình của cuộc chiến đã vượt quá xa tình trạng an ninh đòi hỏi để tiếp tục xây dựng ấp chiến lược theo đường lối cũ” [128, tr.131].
Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, Mỹ đã quyết tâm tiếp tục thực hiện chương trình ACL ở miền Nam và coi đó là mặt trận thứ hai với tên gọi mới là “Chương trình cải tiến dân sinh ở nông thôn” nhằm lôi kéo quần chúng nhân dân đứng về phía chính quyền VNCH.
Đối với chính quyền VNCH, ngày 16 – 11 – 1963, Trung tướng Dương Văn Minh - Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng đã chủ trì phiên họp về ACL tại phòng họp Bộ Tổng Tham mưu quân đội VNCH. Trong cuộc họp này, “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” đã chỉ ra hai nguyên nhân làm thất bại “quốc sách ấp chiến lược”: “Một là, khuyết điểm làm mau và cưỡng bức dồn dân làm dân oán ghét; Hai là, dân phải đóng góp nhiều cho chương trình xây dựng ấp chiến lược, vì vậy, dân chúng bất mãn và không ủng hộ” [47]. Từ những phân tích trên, ngày 23 – 11 – 1963, Hội đồng Quân nhân Cách mạng quyết định:
- Chương trình ấp chiến lược sẽ tiếp tục.
- Sẽ chấm dứt sự cưỡng bách định cư những gia đình trong thành phố.
- Sẽ chấm dứt sự cưỡng bách lao động liên quan đến ấp chiến lược.
Để vạch ra đường lối mới cho chương trình ACL, Thủ tướng chính quyền VNCH Nguyễn Ngọc Thơ chỉ thị cho các tướng lĩnh phải trực tiếp đến thăm và kiểm tra tình hình tại các tỉnh. Sau khi đi thị sát và kiểm tra, Hội đồng Quân nhân