Phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 Qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố - 21


chức dịch. Nhưng ông chánh hội không nghe. Ông ấy nói rằng thế nào cũng phải đấm miệng cho các bô lão và bọn trai đinh bò bướu một bữa” [25; 222]

Ngô Tất Tố vốn là nhà nho có kiến thức Tây học, lại có thời gian hoạt động viết báo ở Sài Gòn (1927-1930), nên trong phóng sự của ông ngoài những từ chỉ phong tục, hủ tục ở làng quê như chuôm bầu, cái hèm, xin keo, vào đám, vào ngôi, mua cỗ, tuần sóc…còn có lớp từ Hán Việt và từ địa phương Nam Bộ.

- “Trống cái trong đình thúc mau như trống hộ đê. Tù và thổi liên thanh bất chỉ” [25; 152].

- “Chúng tôi đã sắp đứt hơi vì muốn theo đuổi trò lạ đời ấy cho đến

cứu cánh” [25, 153].

- “Dân làng còn thưa vắng. Vì cuộc tế thần cử hành về đêm, những người chấp sự vẫn chưa tới hết” [25; 173]

- “Nhân lúc vô sự, tôi liền đi đến nhà ảnh để coi” [25; 238]

Từ địa phương Nam Bộ không xuất hiện nhiều, Ngô Tất Tố chỉ dùng hai từ phổ thông và dễ hiểu: ảnh (anh ấy) và ổng (ông ấy). Và hai từ ấy cũng chỉ có ở 5 bài Đôi giầy mất dạy, Vũng lội làng Ngang, Đuổi giặc cho thần, Miếng thịt chùi dao, Góc chiếu giữa đình: “Ông chủ nhà tôi rất mến ảnh, quanh năm suốt tháng không dám rời ảnh mấy khi”, “Ổng cũng biết rằng đàn bà ở đời không phải là thừa. Nhưng hơn ba chục năm làm thân đàn ông, ổng chưa biết hơi đàn bà thế nào!”. “Vì tập hồ sơ của tội án cái đình đương cần sưu tầm tài liệu nên khi thấy ổng giở câu chuyện đó, tôi tưởng như bắt được của và tôi chờ đợi lời ổng một cách vui vẻ” “Trong cái đêm tắt đèn, ông Ng.Tr.L. vẫn chưa nói hết mỹ tục của làng D.L. Mới đây, khi ở Vinh ra, ổng đã bổ khuyết với tôi chỗ đó”. “Người ta bảo với tôi rằng: ổng rất thật thà chân chỉ. Trước đó chừng mười lăm năm, ổng còn làm nghề cày thuê, vợ ổng thì chuyên đi ở vú”.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Bên cạnh lớp từ ngữ trên chúng ta gặp nhiều từ lóng, tiếng lóng. Tiếng lóng chỉ dùng riêng trong nội bộ một nhóm người với nhau, một thứ ngôn ngữ đặc biệt, riêng biệt, nhưng lại được các nhà văn sử dụng khá thành công, nhất là Tam Lang, Vũ Trọng Phụng. Điều đó chứng tỏ các cây bút phóng sự am hiểu rất kỹ lưỡng nghề nghiệp và ngôn ngữ nghề nghiệp của từng đối tượng được miêu tả. Tam Lang mỉa mai bọn người…ngợm bằng thứ ngôn ngữ đời thường vừa hóm vừa hoạt, phù hợp với từng loại người: Bà Chủ mỏ thường ngồi vắt nóc trên ghế. Mợ Đốc Bốn lau lớp phấn cũ, “trát lớp phấn mới trên má, kẻ lại hai hàng lông mày cho được nhỏ như hai sợi chỉ, thoa lại cặp môi cho thật thắm. Cái việc “cạo tường, quét vôi, kẻ hoa” ấy cũng đã mất nửa ngày”. Bà Chủ đất thì “chiếc áo thắt đáy càng làm nổi bộ mông lồng bàn, rồi cái “sơ mi” lụa viền đăng ten càng làm nẩy cặp vú sừng bò núng nính”. Ông cũng sử dụng rất thành thạo tiếng nhà nghề, tiếng lóng của dân nghiện, dân xe kéo: “Ngang hay hộp? - Ngang nhưng còn bền lắm, sái tư còn con ong” (loại thuốc phiện tốt, khi hút phồng lên như con ong), khẩu bộp (lừa đảo) cảnh sộp (gái đẹp hay người nhiều tiền) đánh nhựa (bắt), cắm đầm (lúc đỗ xe đâm càng vào cửa những nhà Tây để chờ chuyến), “một thằng trước khi bước lên xe đã cò kè từng đồng xu thì hảo chót rẫm gì mà hảo!”…Vũ Trọng Phụng cá tính hóa nhân vật bằng những tiếng lóng đặc trưng của dân bạc bịp trong Cạm bẫy người: mòng, két, tạ, thiếc, đòn Vân Nam, đòn ve, đòn kim, trạc xếch

Cấp độ câu văn: Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang thường sử dụng thành ngữ, tục ngữ nhằm diễn đạt, mô tả đúng cảnh, đúng tình, đúng người, đồng thời cũng lột tả được đúng bản chất của sự việc, vấn đề. Tính cô đọng, hàm súc, khái quát và hình tượng của thành ngữ tục ngữ gây ấn tượng cho người đọc. Văn phóng sự của Tam Lang có sức biểu cảm nhờ vào những thành ngữ tục ngữ: gà què ăn quẩn cối, đói đầu gối phải bò, ăn cướp cơm chim, ngựa tìm đường cũ, nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc

Phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 Qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố - 21


đầu, một người làm quan cả họ được nhờ, thợ rào thì có búa, bà chúa thì có tàn, ông quan thì có lọng, bòn nơi khố cậy đãi nơi quần hồng

So với Tam Lang, câu văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố có nhiều thành ngữ, tục ngữ hơn, nhất là phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Theo thống kê của chúng tôi Kỹ nghệ lấy Tây trong 75 trang in có 27, Cơm thầy cơm cô trong 48 trang in có 42, Một huyện ăn Tết trong 15 trang in có 19, Tập án cái đình trong 63 trang in có 16, Việc làng trong 93 trang in có

20. Các thành ngữ tục ngữ được sử dụng hợp lý thích ứng với những hoàn cảnh, công việc của từng hạng người. Ở Kỹ nghệ lấy Tây: cạn tàu ráo máng, lá gió cành chim, quen thân mất nết, trốn chúa lộn chồng, tin đi mối lại, điều nọ tiếng kia, ngồi lê đôi mách, trăm đường nghìn nỗi, trao xương gửi thịt, qua ngày đoạn tháng, một người lấy Tây cả họ được nhờ, đầu trâu mặt ngựa, mềm nắn rắn buông, tiền trao cháo múc, đâm bị thóc chọc bị gạo, trơ như đá vững như đồng, gan lì tướng quân, bách niên giai lão…Đúng là hành vi, cử chỉ, cách ứng xử của con người trong thế giới me Tây. Ở Cơm thầy cơm cô các thành ngữ tục ngữ làm hiện lên những thân phận bèo bọt của lớp người không chốn nương thân: nằm ngổn nằm ngang, ăn chực nằm chờ, năm cha ba mẹ, tranh cơm cướp áo, chân lấm tay bùn, vái lấy vái để, ăn đói làm no, vu oan giá họa, giận cá chém thớt, nóng lòng sốt ruột, nhị rửa hoa tàn, sa cơ lỡ bước, khố rách áo ôm, công ăn việc làm, cơm thừa canh cặn, con ong cái kiến…Ở Một huyện ăn Tết, các thành ngữ tục ngữ tập trung vào những hành vi, cử chỉ, tâm tính của bọn lính cơ, lính lệ vô lương tâm, nhân tháng củ mật, áp Tết tìm cách “đi ăn cướp có giấy phép”: năm hết Tết đến, gà què ăn quẩn cối xay, gãi đầu gãi tai, sôi lên sùng sục, của ít lòng nhiều, có đi có lại mới toại lòng nhau, an cư lạc nghiệp, cá lớn nuốt cá bé, đòn sóc hai đầu, bạc là dân bất nhân là lính, được đằng chân lân đằng đầu, ăn cơm mới rồi mới nói chuyện cũ, lạy mình như tế sao

Trong hai tập phóng sự Tập án cái đình Việc làng của Ngô Tất Tố, các thành ngữ tục ngữ gắn với cuộc sống của người nông dân. Từ đó người


đọc nhận ra bức tranh hiện thực sinh động về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng 1945: tối như hũ nút, trời tối như mực, hôi như tổ ác, áo vải quần nâu, trời giá như cắt, kiết xác mồng tơi, cày sâu cuốc bẫm, của ăn của để, năm thiếp bẩy thê, chiêm khô mùa thối, sống làm sao thác cũng chiêm bao làm vậy, buồn ngủ gặp chiếu manh, nghèo xác nghèo xơ, cha già mẹ héo, mẹ nào con nấy, vắt cổ chầy ra nước, chối khan chối vã, mưa thuận gió hòa, vai u thịt bắp, gắp lửa bỏ vào bàn tay…Câu văn có thành ngữ sinh động vừa có sức gợi,vừa có sức khái quát. Điều này không chỉ Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang mà nhiều cây bút phóng sự khác cùng thời như: Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp … cũng nhận ra và sử dụng rất thuần thục.

Khảo sát phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang, chúng tôi còn thấy cấu trúc câu văn ngắn gọn, tránh được lối mô tả hoặc giãi bày dài dòng, tạo ra những đối thoại sinh động, đặc sắc. So sánh câu văn trong tiểu thuyết Giọt lệ sông Hương và trong phóng sự Tôi kéo xe cùng của Tam Lang sẽ rõ: “Lắm lúc mơ màng nghĩ đến quãng đời bảy tám năm trời về trước lòng riêng lại như hiu quạnh, mà bâng khuâng thổn thức về những nỗi cũ miền xưa. Tuổi xuân chưa qua, bên mái tóc xanh những thấy bóng dâu đã xế, giải nước sông Hương đầy vơi giọt lệ, trong muôn năm nào ai thấy đến cái tâm sự của mình. Nước mắt năm canh, có lúc thấm ướt mấy lần chăn gối, tơ lòng trăm mối, cảm cơn gió lạnh mà động niềm hôm mai…” (Giọt lệ sông Hương). “Thật chúng nó tàn nhẫn. Ăn cướp cơm chim, sống bám vào những khố rách. Những thằng thế mà giới vẫn cho mát mặt, chẳng bù với mình, đầu tắt mặt tối, ngày nắng đêm sương…Để mặc anh Tư chửi bới cho hả giận, tôi vắt tay lên trán, mơ màng nằm nghĩ một mình. Ngoài trời, ngàn dâu đã xanh ngắt bên sông…(Tôi kéo xe).

Vũ Trọng Phụng cùng viết về một đề tài, một chủ đề, nhưng câu văn trong phóng sự và trong tiểu thuyết có khác nhau. Ở phóng sự nhanh gọn, linh hoạt, sắc sảo hơn ở tiểu thuyết: “Huyền! - Huyền phải chính là Huyền. -


Thật là bất ngờ - Ừ, quả vậy - Huyền ơi, em còn nhớ các anh không? Em vào hẳn đây đi – Trông các anh quen lắm” [8; 62-63]. Đó là đoạn đối thoại giữa Huyền và hai anh bạn học cũ trong tiểu thuyết Làm đĩ. Còn đối thoại giữa ông đốc tờ với cô gái phải khám bệnh “phong tình” trong phóng sự Lục xì hiện rõ thân phận nhân vật:

- “Con này sao mày được tiếp khách như thế?

- Bẩm quan lớn, không thế thì nó bóp cổ con chết mất!

- Thế thì mày phải gọi đội xếp chứ!

- Bẩm…nhưng mà nó đã lột truồng con ra rồi!

- Mày không kêu cứu ai à?

- Bẩm, ở nhà săm chứ không ở nhà con. Hôm ấy săm vắng khách

- Một thằng

- Bẩm, đó là một thằng da đen ạ.” [9; 79]

Người đọc có thể bắt gặp nhiều đoạn đối thoại ngắn, độc đáo, hấp dẫn trong các tập phóng sự khác của Vũ Trọng Phụng mà nhờ đó tính cách nhân vật được khắc họa rất ấn tượng. Một phiên tòa đặc biệt, xử một người đặc biệt – me Tây.

“ - Tên là gì?

- Nguyễn Thị Ba

- Bao nhiêu tuổi?

- Hăm nhăm

- Làm nghề gì?

- Trước lấy một ông phó đoan, sau lấy một ông…

- Im! Nghề gì chứ ai hỏi lấy chồng!

- Sau lấy một cập ten.

- Không có nghề phải không? Vô nghề nghiệp


- Việc gì mà vô nghề nghiệp?

- Thế làm nghề gì?

- Làm nghề gì? Làm nghề…làm nghề lấy Tây!” [4; 15]

Ngô Tất Tố cũng cấu trúc câu văn ngắn, súc tích khi điều tra, phóng sự về một việc, một vấn đề nào đó. Nếu như ở tiểu thuyết Tắt đèn đối thoại vẫn còn dềnh dàng:

- “Thế nào, mày nghĩ tao nói có phải hay không?

- Vâng, thưa hai cụ con cũng biết rằng cháu được sang đó nương nhờ các cụ và cô Hai, thật là phúc cho nó lắm. Nhưng vì, nhà con thiếu hơn hai đồng tiền sưu, mới phải đến kêu cửa cụ. Nếu cụ chỉ cho một đồng thì còn hơn một đồng nữa, chúng con không biết chạy vào đâu được. Vậy xin hai cụ nhón tay làm phúc…

- Thiếu bao nhiêu mặc kệ mày, kể lể làm gì? Mày định bổ vào nhà tao đấy à?

- Thiếu một đồng nữa, thì xem trong nhà còn có cái gì đáng tiền, đem mà bán nốt đi vậy! Chứ đứa con gái sáu tuổi, bây giờ cho không cũng không đắt thay, ai động rồ mà trả mày hơn…

- Thưa lạy hai cụ, thật quả nhà con không còn cái gì đáng giá hai hào.

- Sao bảo nhà mày có con chó cái khôn lắm!

- À! Thưa cụ có! Nhưng nó mới đẻ, con nó hãy còn non lắm, có bán không ai mua, nếu có người mua cho, chúng con đã không phải bán cháu!

- Nỏ đẻ mấy con? Con đã mở mắt chưa?

- Bẩm bốn con. Nó biết ăn cơm đã hai hôm nay…Hay là xin cụ đỡ con hai đồng, lời lãi thế nào con cũng xin vâng. Chỉ độ hai phiên chợ nữa, mấy con chó ấy cứng cát, bán được, thì con lại xin nộp cụ.

- Tiền tao có phải vở hến mà tao quẳng cho mày bây giờ? Dễ tao hám lãi của mày lắm đấy? Thôi, thế này: chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con


chó cái và đàn chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con bé kia một đồng là hai…Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi nuôi chó, khỏi nuôi con. Sướng nhé!” [25; 35]

Thì đến phóng sự Việc làng, câu văn gọn chắc và nhịp nhanh hơn: “- Thưa các cụ làm bao nhiêu cỗ?

- Mày trông xem có bao nhiêu người kiến tại

- Bẩm ba mươi người tất cả

- Hàng xóm ta mấy mươi suất, cụ có nhớ không?

- Năm ngoái bảy mươi tám suất, năm nay mới thêm năm suất thế là tám mươi ba suất cả thảy.

- Vậy thì phải làm hai mươi ba cỗ, tám cỗ kiến tại, một cỗ chứa, một cỗ cho mày, còn mười ba cỗ làm phần” [25; 232].

Nhìn chung, câu văn phóng sự ngắn, chứa đựng nhiều thông tin, dùng nhiều khẩu ngữ, thành ngữ tục ngữ, từ ngữ nhà nghề, đối thoại…bởi vì phóng sự cần đưa đến cho người đọc một cảm nhận trực tiếp, sự việc, sự kiện, con người cụ thể, sinh động như đang ở trước mắt. Và điều đó buộc người viết phóng sự phải dùng thứ ngôn ngữ đời thường, linh hoạt và gần gũi. Tất nhiên nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, hành văn thế nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố: tư chất nhà văn, chất liệu và đối tượng mô tả…Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tam Lang có nét khác nhau nhưng vẫn hiện ra điểm chung. Điểm chung đó nếu so với văn phóng sự của Nguyễn Tuân thì rõ. Văn phóng sự Ngọn đèn dầu lạc của Nguyễn Tuân chậm rãi, nhẩn nha như chân dung thể xác, tinh thần của các con nghiện, với những mô tả tỉ mỉ đến tỉ mẩn cử chỉ, động tác của cái Tôi “thấy mình là một phế nhân”. Trong một tiệm hút “đèn đóm như sao sa, tôi ngờ rằng đây là một đàn chay của bữa cúng Thượng nguyên người ra làm lễ nhường sao”. “Tôi lăn kềnh ra sân, gối


đầu lên cái gối sứ tráng men xanh. Thấy lạnh gáy tôi nghĩ đến cái thớt để kê đầu tên tử tù ở các pháp trường nước Hà Lan mà người ta xử tử bằng một cái lưỡi búa tầm sét” [27; 523]. Và một đám con nghiện: “Họ nghển đầu lên bốc những miếng lạp sườn, xúc thìa cơm hoặc gắp miếng bánh cuốn y như người La Mã ăn yến tiệc bao giờ cũng nằm dài trên thứ trường kỷ” [27; 533].

3.3. Sự dung hợp các thể loại

Phóng sự là gì ? Đặc trưng của phóng sự ? Phóng sự báo chí và phóng sự văn học? Là những vấn đề có thể còn phải trao đổi thêm. Nhưng, như chúng tôi đã đề cập ở chương 1, dựa vào thực tiễn và thành tựu phóng sự Việt Nam thời kỳ 1930-1945 thì phóng sự đã sử dụng linh hoạt những biện pháp nghệ thuật của các thể loại văn học. Như vậy phóng sự, ký sự, truyện ngắn, tiểu thuyết phóng sự thực sự có nhiều điểm gần nhau, giao thoa bên cạnh những khác biệt. Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng đã viết một bài phân tích sâu sắc về phóng sự Việt Nam (1932-1945): mối quan hệ giữa ký sự trung đại và phóng sự hiện đại, tiêu chí nhận diện phóng sự hiện đại…Ông viết: “Từ một phương diện khác, có thể thấy động cơ và mục đích của ký sự trung đại và phóng sự hiện đại cũng khác nhau khá nhiều. Qua những tác phẩm như Thượng kinh ký sự, Vũ Trung tùy bút hay Hoàng Lê nhất thống chí ta thấy sau khi ghi chép, mô tả một sự kiện nào đó, tác giả thường chỉ bày tỏ những chiêm nghiệm về thời thế, bình luận về chính sự, đạo đức hay về một xã hội đang suy vi hoặc hưng thịnh theo quan niệm riêng của mình. Trong khi đó ở phóng sự hiện đại, theo Nguyễn Đình Lạp là tinh thần “nghiên cứu, tìm hiểu một sự kiện nào đó rồi ghi chép cho thật đúng” với mục đích “cung cấp cho nhà xã hội học, nhà chính trị những thông tin về tình hình xã hội, đạo đức…để họ tìm cách giải quyết”.

Như vậy là phóng sự tuy không đặt mục đích giải quyết vấn đề nhưng nó lại nêu vấn đề, đề xuất vấn đề có tính cảnh báo xã hội trên cơ sở nghiên

Xem tất cả 202 trang.

Ngày đăng: 19/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí