quanh chúng tôi cái đen tối của đêm khuya dầy dằng dặc”. Sự kết hợp giữa những tính từ chỉ đêm đen và giá rét cùng với những thành ngữ “tối đen như mực”, rét như cắt ruột” tô đậm cảm giác về màn đêm mênh mông sâu thẳm lạnh lẽo bao trùm lên cuộc đời có lúc thăng hoa có lúc ngập chìm trong đêm tối.
Có thể nói, với hệ thống ngôn ngữ diễn tả những cảm giác hướng ngoại, Thạch Lam đã mở cánh cửa đi vào thế giới tâm hồn nhân vật góp phần soi chiếu và lí giải những uẩn khúc, những biến đổi tinh vi trong tâm hồn nhân vật. Nhà văn rất chú ý lựa chọn những tính từ chỉ âm thanh, màu sắc, đường nét, mùi vị…khai thác triệt để khả năng gợi tả của lớp ngôn ngữ thuần Việt vào văn chương thay thế cho lớp từ Hán Việt vốn đã có sức ảnh hưởng lâu nay.
4.1.2 Những sáng tạo về mặt từ vựng.
Từ ngữ có ý nghĩa thẩm mĩ cao khi chúng được tổ chức, kết hợp một cách sáng tạo thể hiện một nội dung đã xác định. Thạch Lam hay tạo nên những kết hợp từ có khả năng khơi gợi cảm xúc, liên tưởng.
Qua những cách đặt tên cho những truyện ngắn của mình cũng là một sáng tạo mang tính thẩm mỹ như: Trong bóng tối buổi chiều, Gió lạnh đầu mùa, Hai lần chết, Nắng trong vườn, Bóng người xưa, Tình xưa…đều có khả năng gợi được những ấn tượng về không khí chung của truyện. Tên đầu đề có giá trị như một nốt nhạc dạo đầu đưa người đọc đến với những giai điệu trầm lắng mơ hồ của tác phẩm.
Trong ngôn ngữ văn chương của Thạch Lam còn có nhiều kết hợp gợi lên nhiều sự liên tưởng thay thế. Ví dụ “Căn nhà với thửa vườn này đối với chàng như một nơi mát mẻ và hiền lành…”(Dưới bóng hoàng lan). Việc kết hợp giữa tính từ chỉ cảm giác và tính từ chỉ phẩm chất, làm cho tổ hợp từ có thêm một nét nghĩa mới rất ấn tượng. Đó là ấn tượng về không gian, về ngôi
nhà rất bình yên, chan chứa tình yêu thương. Kể về cô hàng xén nhà văn viết : “Chiếc đòn gánh càng cong xuống và rền rỉ” (Cô hàng xén). Trong câu văn có sự sáng tạo kết hợp giữa từ tượng hình và tượng thanh tạo nên một ẩn dụ về nỗi vất vả chồng chất lên đôi vai người phụ nữ đi lấy chồng, vừa lo việc nhà chồng, vừa lo nuôi các em ăn học. Trong Tối ba mươi, nhà văn diễn tả cảm giác tủi nhục bơ vơ của hai cô gái bán hoa bằng việc kết hợp những tính từ chỉ nội tâm và tính từ chỉ ngoại cảnh quen thuộc. “Vẻ lạnh lẽo của căn phòng bao bọc lấy Liên, khiến cái vui mong manh sắp tắt”, “Liên nghĩ đến sự trơ trọi của đời mình”, “những thất vọng chán chường’, “Mưa bụi vẫn bay tơi tả…trên hè phố ướt át và nhớp nháp bùn”. Nhưng khi đọc kĩ những từ ngữ quen thuộc đó lại mang một lớp nghĩa mới. Chúng không chỉ diễn tả tâm trạng mà còn tạo ấn tượng về số phân nhân vật. Đó là thân phận lạc loài, tả tơi, trơ trọi giữa cuộc đời. Những từ ngữ gợi cảm đó cứa sâu vào lòng người nỗi khắc khoải, trăn trở về số phận trớ trêu của những con người dưới đáy xã hội.
Trong những truyện ngắn của mình, Thạch Lam cũng hay sử dụng những ẩn dụ khá tài hoa. Chúng có thể gọi tên được những trạng thái cảm xúc mơ hồ mà nếu chỉ dùng tính từ, động từ chỉ trạng thái đơn thuần không thể diễn tả nổi. Ví dụ chỉ cần một ẩn dụ từ vựng trong câu: “Có cái gì dịu ngọt dăng tơ đâu đây khiến chàng vướng phải” (Dưới bóng hoàng lan) đã diễn tả rất tinh tế trạng thái cảm xúc mong manh như hương hoa trong tâm hồn trai trẻ của Thanh vừa chớm nở cảm xúc yêu thương. Con có nhiều ẩn dụ trở thành những biểu tượng có giá trị như: “những vật tốt đẹp bày trong tủ kính các cửa hàng” (Một cuộc đời); “ngọn đèn con của chị Tý và bóng tối” (Hai đứa trẻ); cái chết lần thứ hai của Dung(Hai lần chết); “sợi tóc chia địa giới” giữa hiền lương và tội lỗi (Sợi tóc)
Nhà văn cũng hay dùng những so sánh vốn là quen thuộc như “cằn cỗi héo hắt lại như một cái cây khô” (Đứa con), “đau đớn uất ức như đứt từng
khúc ruột” (Một đời người) .. Thạch Lam có những lối so sánh khá lạ, mang ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ. Ví dụ như để diễn tả những cảm giác êm đềm hạnh phúc của người cho khi nhận ra những tình cảm mới mẻ của, ngọt ngào mà đứa con mới đẻ mang lại, nhà văn sử dụng một cách so sánh rất mới: “lòng rung động khẽ như cánh bướm non” (Đứa con đầu lòng). Trong truyện ngắn “Cô hàng xén”, cuộc đời thầm lặng, vất vả của Tâm đuợc nhà văn ví bằng những hình ảnh mộc mạc: “Cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ cho đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ”. Cảm giác về một cuộc đời như tấm vải thô sơ được rệt nên từ những lo toan khó nhọc đó làm cho câu chuyện không khép lại ở đó mà tiếp tục gieo vào lòng người những nỗi ám ảnh. Diễn tả cảm giác cô đơn giữa thành phố xa lạ của nhà văn trẻ tác giả dùng so sánh “ Tâm hồn Thành trơ trọi như một cánh đồng thấp mà lúa đã gặt rồi” (Trong bóng tối buổi chiều). Hình ảnh so sánh tự cho thấy vẻ chân chất của chàng trai tuy ôm mộng lập nghiệp thành danh nơi thành phố, nhưng chất thôn quê đã thấm vào tận đáy tâm hồn. Anh chỉ có thể tìm thấy sự bình yên nơi quê nhà của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Niệm Về Không Gian Nghệ Thuật
- Ngôn Ngữ Gợi Tả Cảm Xúc, Cảm Giác.
- Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam - 10
- Giọng Điệu Trong Truyện Ngắn Thạch Lam.
- Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam - 13
- Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam - 14
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Đọc những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, người đọc thú vị với những ví von độc đáo chứng đựng sự liên tưởng bất ngờ thú vị: “Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai ngọn đèn giời” ( Thật là phúc). Có so sánh để “đá móc” một sự vật, một hiện tượng khác: “Mĩ thuật nhất là cái ngực đầy như cái ví của nhà tư sản, chứ không phải cái óc của ông Nghị ngay cả trước ngày họp hội đồng” (Samandji). Có so sánh bất ngờ thú vị “Xe thứ bẩy thì một cô xấu nhưng tân thời, mặt phấn, má hồng, môi đỏ, rẽ lệch, chiếc áo căng lườn, trông anh ách như một bài thơ thất luật”. Nhìn chung những so sánh này đều dùng cái cụ thể này làm chuẩn so với một cái cụ thể khác. Đọc văn Hồ DZếnh người đọc nhớ những so sánh mà tâm trạng buồn thương được dùng làm chuẩn để so với vật vô tri vô giác. Tiếng xay lúa ồ ồ “như những
nhịp đời thương nhớ âm vọng trong thời khắc và lòng người:” (Người chị dâu tôi). Mấy điểm đèn hạt dầu run trên sông “như những con mắt buồn từ kiếp trước” (Ngày gặp gỡ). Thạch Lam lại ưa dùng chuẩn so sánh là cảm giác để so sánh với một cảm giác khác, tức là dùng loại cảm giác này so sánh với loại cảm giác kia. Các thứ hàng “sạch sẽ và ngăn nắp như công việc, như ý nghĩ của cô hàng xén”. Dáng đi của chị Sen “chậm chạp và khó nhọc như đang còn gánh nước nặng ở trên vai” (Đứa con). Tâm hồn “nhẹ nhõm và tươi mát như vừa tắm ở suối” (Dưới bóng hoang lan)…
Phong cách ngôn ngữ của nhà văn trước hết biểu hiện ở cách khai thác sử dụng vốn từ. Văn Nam Cao xuất hiện nhiều những từ ngữ chỉ sự quá mức như: lại còn, rất, suốt đời, suốt ngày,lắm lúc, càng, càng ngày, toàn những…thể hiện cái nhìn hiện thực buồn thảm, cùng cực nỗi đau trong tâm hồn ông. Nguyễn Công Hoan lại thành công với vốn từ vựng mang đậm phong cách khẩu ngữ tự nhiên với tiếng nhại, tiếng mỉa, tiếng pha trò. Thạch Lam tạo dấu ấn về lớp ngôn ngữ nhuần nhị, tinh tế, giàu sức biểu cảm. Đọc văn Thạch Lam ta không bắt gặp những kiểu sáng tạo mới độc đáo, những lối dùng từ bất ngờ, khó theo dõi. Qua những ngữ liệu đã dẫn dưới đây có thể nói Thạch Lam đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, biết phát huy hết khả năng gợi cảm của từ loại Tiếng Việt, biết sắp xếp ngôn ngữ để tự nó hắt sáng lên những ấn tượng cảm giác tinh vi. Sự thành công đó giúp người đọc hình dung được cuộc sống không chỉ ở cái bề mặt mà cả ở chiều sâu, không chỉ ở cái nhìn thấy được mà cả cái khó nhìn thấy. Đó cũng là yếu tố để ngôn ngữ truyện ngắn của Thạch Lam không bị người đọc lãng quên như một số trang văn của Tự lực văn đoàn.
Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn của nhân vật, là “lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động, cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng
chảy trực tiếp của nó” [4, tr 106]. Đọc thoại nội tâm là thủ pháp nghệ thuật độc đáo để nắm bắt con người bên trong.
Nhân vật của Thạch Lam ít hành động, thiên về đời sống nội tâm, giàu cảm xúc, cảm giác do đó ông đã sử dụng hình thức độc thoại nội tâm để bộc lộ một cách sâu kín những cảm xúc, những ý nghĩ của nhân vật. Qua khảo sát các truyện ngắn của Thạch Lam cho thấy có 15/23 truyện ngắn của Thạch Lam có độc thoại nội tâm. Dùng độc thoại nội tâm nhà văn tạo cho người đọc cơ hội nhập vào dòng suy nghĩ của nhân vật. Độc thoại nội tâm chủ yếu được cấu tạo theo cách dùng lời tự nhiên mô phỏng ý thức của con người. Qua đó ta thấy nhân vật của Thạch Lam tự đối diện với chính mình, tự lặn sâu vào tầng ngầm vô thức của mình. Nhiều truyện của ông hầu như vắng bóng ngôn ngữ đối thoại, có truyện từ đầu đến cuối chỉ là những dòng độc thoại nội tâm day dứt như Cuốn sách bỏ quên, Người đầm.
Truyện ngắn của Thạch Lam chúng ta thấy độc thoại nội tâm được tổ chức dưới dạng lời nói nửa trực tiếp và một vài trường hợp tổ chức dưới dạng lời nói trực tiếp.
Thạch Lam thường tổ chức ngôn ngữ độc thoại nội tâm hòa cùng với lời của tác giả hay lời người kể chuyện tạo thành lời nói nửa trực tiếp. Lời nói bề ngoài thuộc về tác giả nhưng nội dung lại thuộc về nhân vật. Nhà văn có thói quen nhập vai nhân vật, từ điểm nhìn của nhân vật để phân tích, miêu tả tâm lí. Do đó dùng độc thoại nội tâm dạng nửa trực tiếp có khả năng tự diễn tả được chiều sâu tâm trạng nhân vật. Ví dụ đây là bao nỗi đau đớn tức tưởi của Sinh khi biết vợ bán thân : “Tại sao Mai trước kia đã từng bao phen khổ sở cùng chàng, đến bây giờ lại đem thân bán đi để lấy một vài đồng bạc; tại sao Mai lại làm sự khốn nạn ấy như bây giờ…” (Đói). Còn đây là tâm trạng ân hận ăn năn của Thanh sau khi từ chối ánh mắt van xin cầu khẩn của người phu xe “Tôi rùng mình nghĩ đến số phận của anh xe khốn nạn. Ba đồng bạc phạt !
Anh ta sẽ phải trả cái xe để nộp phạt; những ba đồng bạc nợ ấy, bao giờ anh ta trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ, đánh đập vì thù hằn” (Một cơn giận).
Độc thoại nội tâm dạng lời nửa trực tiếp cho phép nhà văn miêu tả dòng suy nghĩ, ý thức của nhân vật một cách tự nhiên giống như những gì nó đang hình thành. Tác giả hòa đồng cùng nhân vật, sống cùng nhân vật, nói bằng tiếng nói của nhân vật. Độc thoại nội tâm dạng nửa trực tiếp có thể biểu đạt một cảm xúc, một ý định hoặc diễn tả cả một quá trình đấu tranh nội tâm (Sợi tóc, Một đời người, hai lần chết, Đứa con đầu lòng, Trở về…) Dùng độc thoại nội tâm dạng lời nửa trực tiếp là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam và Nam Cao. Tuy nhiên trình độ nghệ thuật của ông chưa vươn tới tầm cao để độc thoại nội tâm gắn với kiểu nhân vật tư tưởng, vốn là yếu tố quan trọng tạo nên đặc sắc của một phong cách truyện ngắn, và tạo sức hấp dẫn như Nam Cao. Đôi chỗ nhà văn thiên về kể tâm trạng nhiều hơn là để cho nhân vật tự bộc lộ bằng tiếng nói bên trong của mình. Việc sử dụng độc thoại nội tâm để miêu tả nội tâm nhân vật là một đóng góp đáng kể của Thạch Lam trên con đường hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam ở chặng đầu.
Việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam có những đặc điểm sau. Ngôn ngữ đối thoại trong truỵên ngắn Thạch Lam không nhiều, ít có giá trị độc lập và thiên về bộc lộ nội dung cảm xúc.
Trong ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan lời đối thoại chiếm một tỉ lệ rất cao. Ông rất tài dựng các đoạn đối thoại giữa các nhân vật. Lời đối thoại có tính hành động cao, ngôn ngữ đối thoại gần với ngôn ngữ kịch. ở các truyện như: Tinh thần thể dục, Oằn tà roằn, Ngựa người và người ngựa, Thanh dạ…‟ Nếu lược bỏ lời trần thuật đi ghép các lượt lời trao đáp giữa các nhân vật, người ta vẫn có một câu chuyện đang vận động và phát triển.
Nam Cao cũng có một số truyện có lời thoại giàu tính hành động, tính sự kiện. Ví dụ như cuộc thoại giữa Hàn và Tơ trong Một chuyện xú vơ nia cuộc đối thọai giữa bốn nhân vật trong Nhỏ nhen ….
Ngôn ngữ của Thạch Lam khá vắng bóng và ít có giá trị độc lập so với lời trần thuật. Thông thường để có lời thoại, nhà văn tổ chức trước khá nhiều lời trần thuật để tạo hoàn cảnh cho tiếng nói của nhân vật cất lên. Ví dụ trong Nhà mẹ Lê sau gần ba trang kể về hoàn cảnh nghèo khó, đàn con đông đúc cả thảy 11 đứa, nhà văn mới cho lời đối thoại đầu tiên xuất hiện:
Bác Đối, kéo xe, người vui tính nhất xóm, không lần nào đi qua nhà bác Lê mà không bảo:
- Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại các con không quên mất.
Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu:
- Mất bớt đi cho nó đỡ tội !
Nhưng mọi người đều biết bác quý con lắm.
Lời đối thoại ngắn được nhân vật dùng theo cách nói ngược, nói vui. Nếu tách bỏ lời dẫn trước và sau lời đối thoại trên thì chúng không đủ sức diễn tả tình thương con của bác Lê, thậm chí có thể hiểu sai ý nhân vật.
Trong Hai lần chết , với ngót ba trang kể về những ngày thơ ấu của Dung chỉ có hai lần xuất hiện tiếng nói của nhân vật – tiếng nói của người mẹ
- Con này sau đến hỏng mất thôi !
- May cho con nặc nô ấy làm gì. Để nó làm rách ra à.
Lời của người mẹ nói lên bao nỗi thua thiệt của Dung từ tấm bé. Nó chứng minh, phụ họa thêm cho những thiệt thòi của Dung mà người dẫn đang kể. Nếu tách ỏ hai lời thoại đó thì nội dung tự sự không thay đổi có chăng chỉ giảm đi sức lay động lòng người trước những bất hạnh của nhân vật.
Nhân vật của Thạch Lam ít đối thoại. Ngay cả khi đối thoại, lời thoại cũng rất ngắn và cũng chỉ có vài lượt lời. Trong một vài trường hợp, lời đối
thoại nếu chuyển thành lời nói gián tiếp, hòa vào tác giả thì cũng không phương hại gì. Ví dụ lời than của mẹ Lê trước khi chết: “Trời ơi! Sao tôi khổ thế này” (Nhà mẹ Lê) hay lời cô đỡ mời Tâm vào thăm con “ Mời ông vào xong cả rồi” (Đứa con đầu lòng)
Ngôn ngữ đối thoại có chức năng đưa đẩy câu chuyện phát triển và giúp bộc lộ nội tâm nhân vật. Nhưng lời đối thoại của truỵên ngắn Thạch Lam thiên về bộc lộ nội tâm, cảm xúc nhân vật. Qua ngôn ngữ đối thoại Thạch Lam cho chúng ta cơ hội đầy đủ để nhận ra từng nhân vật như: giọng ân cần mừng rỡ của người mẹ già khi thấy đứa con xa trở về nhà, giọng trống không vô cảm của đứa con đối với mẹ (Ngày về); giọng nhẫn nhịn cam phận không oán trách của mẹ Lê khi bị nhà giàu xua chó ra cắn (Nhà mẹ Lê); giọng chán chường cùng cực của những cô gái trong (Tối ba mươi); giọng chùng chình, dùng dằng vì mải suy tính của nhân vật Thành (Sợi tóc)…
Văn là người- nó giống như con người lịch thiệp nho nhã tài hoa Thạch Lam, văn chương của ông hết sức tế nhị, có chừng mực, trang nhã, chính xác ngắn gọn và tươi đẹp…Là một cái gì bàng bạc nhẹ nhàng. Nó không hề là những luận đề lớn lao, những tư tưởng kỳ lạ, mà vẫn có sức lôi cuốn người đọc bởi ngôn ngữ trong sáng giản dị và giọng văn nhẹ nhàng uyển chuyển.
Bằng sự tài tình trong việc sử dụng ngôn ngữ, Thạch Lam đã đóng góp cho ngôn ngữ văn học dân tộc những giá trị biểu cảm nghệ thuật mới làm giàu có, phong phú thêm ngôn ngữ văn học Tiếng Việt. Mặc dù là thành viên của Tự lực văn đoàn, nhưng Thạch Lam đã tìm thấy và xây dựng cho mình một tiếng nói riêng, một thứ ngôn ngữ của chính mình. Bằng những lời văn giản dị trong sáng giàu chất thơ ông đã đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam đầu thế kỷ XX trở nên lung linh sống động . Thạch Lam còn có những đóng góp cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc và còn là sợi dây bền chặt nối ông với độc giả hôm nay và mai sau.