Mục Tiêu, Quan Điểm Cơ Bản Phát Triển Nguồn Nhân Lực Ở Tỉnh Kiên Giang.

đầu ngành và những cán bộ kỹ thuật giỏi, có tâm huyết, nhiệt tình đóng góp vào sự phát triển chung của Tỉnh.

Thứ tư, có sự bất hợp lý về nhiều mặt trong cơ cấu lao động như việc phân bố lực lượng, ngành nghề đào tạo, trình độ đào tạo và bố trí sử dụng.

Thứ năm, năng lực điều hành, quản lý của nhiều cơ quan quản lý nhà nước chưa theo kịp tình hình phát triển mới, một số ít cán bộ quản lý tư duy chậm đổi mới làm cản trở công cuộc đổi mới. Về mặt chuyên môn, một bộ phận lớn đội ngũ cán bộ công chức viên chức chưa đảm bảo về tiêu chuẩn chất lượng, cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn giỏi còn thiếu so với yêu cầu phát triển của Tỉnh.

Thứ sáu, công tác quy hoạch đào tạo chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức viên chức các cấp, nhất là cấp xã, phường chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nguyên nhân tồn tại những hạn chế trên:

Một là, do cơ cấu đào tạo hiện nay của Kiên Giang còn bất hợp lý giữa các bậc, ngành đào tạo. Kiên Giang hiện có 34 cơ sở đào tạo nghề (14 cơ sở công lập; 20 cơ sở ngồi công lập). Trong đó có 4 trường cao đẳng chuyên nghiệp; hệ thống các trường đào tạo các ngành kinh tế, xã hội nhiều hơn các ngành kỹ thuật. Sự bất hợp lý này dẫn đến số lượng sinh viên các ngành kinh tế

- xã hội lại thừa quá nhiều mà các ngành kỹ thuật lại quá ít, đây là nghịch lý so với nhu cầu xã hội và tình trạng sinh viên ra trường không xin được việc làm và phải làm việc trái nghề. Cơ cấu đội ngũ lao động qua đào tạo chưa hợp lý trước hết về tỷ trọng giữa đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật (1 - 0, 8 - 4, 4), các nước trong khu vực (1 - 4 - 10), kinh nghiệm một số nước cho thấy cơ cấu lao động hợp lý ở những nước đang tiến hành công nghiệp hóa là 1 kỹ sư, 4 trung cấp kỹ thuật, 20 công nhân lành nghề, 60 công nhân tay nghề thấp và 15 lao động giản đơn, lực lượng lao động kỹ thuật có trình đại học, cao đẳng sau đại học tăng nhanh, trung học chuyên nghiệp giảm và qua đào tạo nghề tăng không cao.

Hai là, chi ngân sách đầu tư cho giáo dục, dạy nghề, khoa học công nghệ chưa tương xứng trước yêu cầu phát triển.

Ba là, sự chuyển dịch cơ cấu lao động các ngành đòi hỏi lao động kỹ thuật cao chậm hơn nhiều so với cơ cấu kinh tế ngành nên tạo ra một lượng lao động dư thừa ngành này, thiếu ngành khác nên việc làm trái nghề không qua đào tạo lại làm hạn chế hiệu quả sản xuất và lãng phí ngân sách nhà nước và xã hội. Mặc dù tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên, song nếu so với cả nước và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long thì tỷ lệ đó còn rất thấp.

Bốn là, chính sách tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ nghiên cứu hoạt động trong lĩnh vực KHCN quá bất hợp lý, đời sống chật vật, điều kiện môi trường làm việc khó khăn nên không ít cán bộ không chưa tận tâm với công việc một số chuyển sang công tác ở lĩnh vực khác, hoặc bỏ nghề, ra làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Năm là, sự yếu kém từ chính ngay đội ngũ nghiên cứu khoa học, giáo viên ở các trường cao đẳng, trung cấp nghề cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực

Sáu là, sự yếu kém trong công tác quản lý nguồn nhân lực, Kiên Giang chưa có quy hoạch rỏ ràng và chính sách sử dụng, đãi ngộ nhân tài chưa thiết thực làm triệt tiêu động lực phát triển của nguồn nhân lực. Việc quản lý và sử dụng nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, chưa có sự phân cấp rõ ràng mỗi ngành, mỗi bộ phận quản lý riêng mà chưa có ngành nắm chung toàn bộ nguồn nhân lực từ đó đề xuất phát triển nguồn nhân lực cho phù hợp. Việc “chảy máu chất xám” cũng cần được quan tâm giải quyết.

Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến năm 2020 - 9

* Những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết:

Từ sự phân tích trên vê những thành tựu, hạn chế trong việc phát triển nguồn nhân lực thời gian vừa qua. Để phát triển tốt hơn nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, Kiên Giang trong giai đọan mới đòi hỏi phải giải quyết những mâu thuẫn sau đây:

- Mâu thuẩn giữa trình dộ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ người lao động với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Mâu thuẫn giữa trình độ lý luận chính trị và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ công viên chức nhà nước, đội ngũ cán bộ quản lý với yêu cầu công cuộc cải cách hành chính đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Mâu thuẫn giữa việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực với việc thu hút sử dụng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp, các cơ sở kinh tế.

- Mâu thuẫn giữa khả năng có hạn của nguồn ngân sách với yêu cầu phát triển ngày càng cao của hệ thống giáo dục – đào tạo.

- Mâu thuẫn giữa tiềm năng sẵn có với khả năng khai thác của nguồn nhân lực hiện có.

- Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nguồn nhân lực với những hạn chế về nguồn lực tài chính, cơ sở hạ tầng vật chất, khả năng quản lý nhà nước.

- Mâu thuẫn giữa thói quen, tư duy làm việc truyền thống nguồn nhân lực với yêu cầu của mỡ cửa và hội nhập vào nền kinh tế tri thức.

Đây là những vấn đề quan trọng đặt ra cho Kiên Giang trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh từ năm 2007 đến năm 2020.

Tóm tắt Chương 2, Dựa trên cơ sở lý luận của chương 1, chương 2 luận văn tập trung phân tích toàn cảnh về nguồn nhân lực của Việt Nam và Kiên Giang, những nhân tố về kinh tế - xã hội, vị trí địa lý, dân số, ảnh hưởng đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực của Tỉnh. Trong những năm gần đây Tỉnh Ủy, UBND Kiên Giang đã tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ phát triển nguồn nhân lực của Tỉnh bằng rất nhiều các giải pháp nhằm huy động các nguồn lực. Quy hoạch lại mạng lưới đào tạo, hệ thống y tế hoàn thiện hơn, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người lao động. Trên cơ sở đó Luận văn đã phân tích làm sáng tỏ về thực trạng phát triển nguồn nhân lực về quy mô, cơ cấu, chất lượng, giáo dục - đào tạo; phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong quá trình

phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nêu lên được những vấn đề đặt ra hiện nay đối với nguồn nhân lực ở Kiên Giang. Tuy nhiên, thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Kiên giang có quá nhiều bất cập như: trình độ học vấn thấp, tỷ lệ chưa tốt nghiệp tiểu học còn cao, một lực lượng lao động lớn chưa qua các lớp đào tạo nghề, cơ cấu nguồn nhân lực dần chuyển dịch theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, nhưng chưa tương thích với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc sử dụng nguồn nhân lực chưa hiệu quả, môi trường làm việc. Nhìn chung, lực lượng lao động trong doanh nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đội ngũ cán bộ công chức nhà nước cần nâng cao hơn trình độ lý luận và trình độ chuyên môn. Đó là cơ sở đưa ra những định hướng và giải pháp thiết thực ở chương 3.

Chương 3.

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỈNH KIÊN GIANG ĐẾN NĂM 2020.

3.1. Mục tiêu, quan điểm cơ bản phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang.

3.1.1. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang.

Về mục tiêu: Nghị quyết đại hội Đảng bộ Tỉnh đã xác định mục tiêu chung về tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP của Tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 trên 13%; giai đoạn 2011 - 2015 trên 21%; giai đoạn 2016 - 2020 trên 15%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng công nghiệp và dịch vụ. Năm 2010 tỷ trọng nông, lâm, thủy sản đạt 35,3%, công nghiệp xây dựng 34,5% và dịch vụ 30,2%; năm 2015 cơ cấu tương ứng là 17%, 46%, và dịch vụ là 37%; đến năm 2020 cơ cấu tương ứng là 8,8%; 38,2% và dịch vụ là 53,3%; GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.100 -1200USD, năm 2015 đạt 2.700 - 3.000 USD; và đến năm 2020 đạt 5000 - 6000 USD.

Hàng năm giải quyết việc làm cho 24.000 đến 25.000 lao động trở lên, đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo dưới 6%, từ 2011-2020 mỗi năm giảm 1,5-2% hộ nghèo và giảm 1% tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em. Đến năm 2020 tuổi thọ trung bình trên 75 tuổi và cân nặng trên 55 kg. Dự báo dân số năm 2010 khoảng dưới 1,8 triệu người và năm 2015 trên 1,88 triệu người và năm 2020 là trên 1,98 triệu người.

3.1.2. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Kiên Giang.

Quan điểm lấy con người làm nhân tố trung tâm của sự phát triển. Sở dĩ như vậy vì phát triển là một tiến trình qua đó các thành viên của xã hội tăng được những khả năng của các nhân tố và định chế của mình để huy động và quản lý các nguồn lực nhằm tạo ra những thành quả bền vững và được phân phối công bằng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với nguyện vọng của họ.

Quan điểm phù hợp, phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh đáp ứng nhu cầu nhân lực cần thiết cho các lĩnh vực hoạt động và đời sống xã hội trên điạ bàn Tỉnh. Phát triển nguồn nhân lực có cơ cấu phù hợp với ngành nghề, tiềm năng lợi thế của Tỉnh và chất lượng ở cả 3 bậc cao, trung và nghề kỹ thuật; chú trọng nhân lực khoa học kỹ thuật đầu đàn, nhân lực có trình độ cao ở các lĩnh vực mũi nhọn then chốt của Tỉnh. Gắn việc đào tạo theo địa chỉ và đồng thời thích ứng với thị trường, đa dạng hoá đào tạo.

Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh có tính đến hội nhập kinh tế quốc tế, đi lao động ngoài Tỉnh và xuất khẩu lao động.

3.2. Những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực.

3.2.1. Giải pháp về đầu tư cho giáo dục đào tạo.

3.2.1.1. Đầu tư phát triển nâng cao dân trí, giáo dục hướng nghiệp:

Chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nguồn lực con người là bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược con người, là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục nước ta trong những năm tới, nhằm tạo ra những điều kiện cơ bản để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Giáo dục đào tạo là một khái niệm rộng phải làm sao cho nguồn nhân lực Việt Nam nói chung và nguồn nhân lực cho tỉnh Kiên Giang nói riêng kế thừa, phát huy và nâng cao những truyền thống tốt đẹp tiêu biểu cho sức sống, bản lĩnh, bản sắc dân tộc. Cải tạo, biến đổi hay xóa bỏ những truyền thống tiêu cực, hạn chế, phản ánh tính lỗi thời, bảo thủ, trì trệ. Hình thành và phát triển những giá trị truyền thống theo yêu cầu cầu đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quốc tế hóa, toàn cầu hóa, tiếp cận và dung hòa những thành tựu văn hóa, khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới.

Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói chung thì học nghề được quy định trong Bộ Luật Lao động, học nghề gắn chặt với lao động và việc làm, hướng

vào thế giới lao động. Đặc biệt trong kinh tế thị trường, để đứng vững trong cạnh tranh, chất lượng là hàng đầu, kể cả chất lượng lao động, chất lượng nguồn nhân lực tạo ra của cải đó. Nhiều nước trên thế giới coi đào tạo nghề là một biện pháp chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. “Các nước phát triển đều thiết lập rất sớm các trung tâm dạy nghề, thời gian học ngắn, thực hành là chính, nhằm vào những nghề mà thị trường đang cần” [30.77].

Phải đổi mới căn bản chất lượng giáo dục đào tạo. Trí tuệ là lực lượng vật chất quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế. Đổi mới công nghệ có ý nghĩa then chốt, trong đó có cả việc đổi mới công nghệ tư duy, tư duy trong hoạch định chính sách và cả trong tổ chức thực hiện chính sách. Có người đã tổng kết rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự thành công của người Nhật Bản chính là họ biết phải suy nghĩ gì? Họ biết phải làm gì và họ biết phải bắt đầu làm từ đâu? Rõ ràng là tư duy theo công nghệ Nhật Bản đã đem lại kết quả quan trọng. Sự cẩn trọng, tính kỹ luật, tính hợp tác và quyết tâm cao đã trở thành những nhân tố cấu thành về mặt chất quan trọng cho con người Nhật Bản. Các học giả phương Tây khi giải phẩu về nền kinh tế Nhật Bản họ đã cho rằng lý do cơ bản làm nên thành công của đất nước này là người Nhật Bản biết kết hợp tài tình tinh thần Nhật Bản với công nghệ Phương Tây.

Đối với cơ quan quản lý nhà nước cần có quy chế chung cho hoạt động dạy nghề và học nghề. Cho phép mọi cá nhân, doanh nghiệp, công ty thuộc các thành phần kinh tế khác nhau được mở các cơ sở đào tạo nghề. Gắn các trường lớp đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh và các trung tâm giới thiệu việc làm một cách có hệ thống.

Có quy định trả phí đào tạo đối với người sử dụng các lao động được đào tạo (trả cho trường lớp đào tạo nếu nhận từ trường, lớp, trả cho chủ sử dụng cũ nếu là chuyển nhượng lao động).

Đưa trường lớp dạy nghề về gắn khu dân cư. Phấn đấu mỗi huyện có một trung tâm dạy nghề. Đây là một hoạt động thiết thực không chỉ nâng cao trình độ nghề nghiệp mà còn giải quyết tốt nguồn lao động tại chỗ.

Giáo dục ý thức và tâm lý coi trọng nghề trong thanh thiếu niên các trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học nhất là đối với vùng sâu vùng xa. Tỉnh cần có biện pháp định hướng, phân luồng cho học sinh ngay khi còn ở bậc phổ thông.

Khai thác khả năng về chuyên gia, kỹ thuật gia và cơ sở vật chất hiện có của các trường đào tạo nghề, các trung tâm liên kết của Tỉnh đối với các trường đại học lâu nay đang đào tạo. Gắn kết việc đào tạo một cách thiết thực tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.

Nâng cao chất lượng đào tạo nghề là một giải pháp quan trọng theo xu thế phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới. Để làm được việc này ngân sách dành cho đào tạo cần tập trung ưu tiên cho trường nghề để thực hiện đào tạo dài hạn là chủ yếu những lao động có tay nghề cao đáp ứng được các kỹ thuật mới với công nghệ hiện đại.

Quy định rõ trình độ và tay nghề của các giáo viên dạy nghề - tương ứng với các nghề và cấp nghề đào tạo. Kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các quy định này ở các trường, trung tâm dạy nghề công lập và các cơ sở tư nhân. Đổi mới trang thiết bị dạy nghề, phương pháp truyền nghề, dạy nghề học nghề của các nước khu vực và quốc tế.

Vấn đề tạo động lực để kích thích mọi người chăm học, chăm làm, động viên tính tích cực xã hội của người lao động làm cho họ năng động, thiện chí, cầu tiến, từ đó đi đến sáng tạo…. là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong tổ chức quản lý vĩ mô, cũng như vi mô nguồn lực con người, lực lượng lao động.

Ở nước ta, xã hội hóa giáo dục trong thời gian qua đã mang lại kết quả tốt. Giải pháp xã hội hóa giáo dục khi nguồn ngân sách quốc gia có hạn, mâu thuẫn với yêu cầu phát triển thì càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Do vậy, xã hội hoá cần thực hiện một cách toàn diện, thể hiện ở một số nội dung sau:

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí