Thực Trạng Về Tổ Chức Quản Lý Hoạt Động Du Lịch


chính qui bài bản, nên việc đề ra chiến lược kinh doanh dài hạn cho đơn vị cũng còn hạn chế, vẫn còn thiếu các lãnh đạo doanh nghiệp ngang tầm với yêu cầu phát triển. Các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố cũng chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng.

2.2.5. Thực trạng về tổ chức quản lý hoạt động du lịch

Công tác quản lý của ngành du lịch trên địa bàn TP. HCM ngày càng đi vào chiều sâu và từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, việc quản lý nhà nước về du lịch vẫn còn những hạn chế về vệ sinh môi trường, chất lượng sản phẩm, ứng dụng những công nghệ mới trong hoạt động du lịch, vệ sinh thực phẩm và trong tuyên truyền quảng bá sản phẩm... Bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh chưa được hiện đại hóa so với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của ngành du lịch. Qua đó có thể thấy ngành du lịch của TP.HCM hiện nay đang phải đối đầu với những thách thức mới: sự cạnh tranh gay gắt sức ép của xu thế toàn cầu hóa, tình trạng xuống cấp của các nguồn tài nguyên, cùng với sự ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, sự xuất hiện các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm ngày càng phức tạp ... Vì thế cần phải có những giải pháp kịp thời, hữu hiệu. Do đó, cùng với xu hướng chung của thế giới, ngành du lịch của TP.HCM phải xây dựng một chiến lược phát triển lâu dài về quản lý và tổ chức.

Phương thức tổ chức và quản lý ngành du lịch còn nhiều bất hợp lý, cơ chế phối hợp giữa các ban ngành liên quan chưa rõ ràng, có sự chồng chéo. Tình trạng một doanh nhiệp kinh doanh một sản phẩm du lịch nhưng bị quản lý bởi 5-7 Sở ban ngành luôn gây khó khăn cho doanh nghiệp, khó quản lý và không kịp thời trong việc hạn chế và ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật của một số doanh nghiệp trong ngành. Thiếu một cơ chế phối hợp và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành để có một tiếng nói chung, phát huy sức mạnh của ngành du lịch thành phố lớn nhất nước.

Điều quan trọng phải thấy rằng đối thủ cạnh tranh chính của ngành du lịch thành phố không phải là các đơn vị trong nước mà là các Công ty nước ngoài, là những địa danh du lịch lớn trong vùng như Bangkok, Malaysia, Singapore… và xu


thế là các Hãng hàng không mở đường bay trực tiếp đến các địa phương trong nước ngày càng nhiều như Đà Nẵng, Đà Lạt, Huế… sẽ chia sẻ lượng khách du lịch…, cho nên việc nâng cao khả năng cạnh tranh là điều rất quan trọng trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Trong công tác tổ chức quản lý, một số vấn đề cần phải quan tâm làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành như:

- Chưa xây dựng được một hệ thống tiêu chuẩn cụ thể làm căn cứ để phát hiện, lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực công tác lâu dài và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

- Thu nhập bình quân còn tương đối thấp chưa đủ thuyết phục, chưa lôi kéo được lực lượng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ; trình độ tay nghề cao phục vụ trong ngành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

- Chưa có cơ chế cho sự phối hợp giữa các đơn vị trong ngành liên quan đến việc hình thành các sản phẩm đặc trưng, việc nối tour, tuyến và sử dụng sản phẩm của nhau làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung.

- Được Đảng và Nhà nước quan tâm và đề cao trong việc phát triển trong những năm tiếp theo, ngành du lịch thành phố phải nắm bắt cho được các cơ hội thông qua hàng loạt các chương trình ''Hành động quốc gia về du lịch'' “Việt Nam, điểm đến của Thiên niên kỷ mới ''. Việc quảng bá tiếp thị ở nước ngoài chỉ mang tính đơn lẻ của một số đơn vị, hoặc tổ chức sơ sài của các cơ quan Tổng Cục Du lịch, nên ít nhiều vẫn mang tính hình thức ít hiệu quả. Đa phần các quảng cáo cho du lịch chủ yếu lại không được thực hiện ở nước ngoài do chi phí quá cao, nghĩa là khách phải đến Việt Nam rồi mới có thể nhìn thấy.

Phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh trong hội nhập quốc tế giai đoạn 2016 - 2025 - 9

-Trước những cơ hội mới, ngành du lịch thành phố cần nhận thấy rõ vai trò quan trọng và khẳng định được vị trí của mình trong ngành du lịch cả nước, cần có các giải pháp để tận dụng các lợi thế cạnh tranh về cơ sở vật chất, vốn, thương hiệu, năng lực chuyên môn. Đồng thời, phải nhanh chóng khắc phục những hạn chế của mình trong công tác tổ chức quản lý và hệ thống thông tin thị trường cũng như hoàn thiện hơn nữa công tác marketing trong toàn hệ thống để có thể chủ động trong cạnh


tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động. Do vậy, việc nghiên cứu và đề xuất một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành là hết sức bức thiết để phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh để thu được hiệu quả cao nhất.

2.2.6. Đánh giá về kết quả đạt được, hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với ngành du lịch TP. HCM trong hội nhập quốc tế

2.2.6.1. Những kết quả đạt được

- Trong thời gian qua, sự lớn mạnh của ngành du lịch đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của thành phố, nâng cao đời sống của người dân và giúp cho hàng ngàn người có việc làm, đồng thời ngành du lịch đã góp phần cải thiện môi trường của thành phố rất nhiều. Kinh tế thành phố tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá cao do môi trường đầu tư được cải thiện. Bên cạnh đó việc nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn kinh tế quốc tế trong đó có việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các tổ chức khu vực như NAFTA, ASEAN…đã góp phần mở rộng và phát triển thị trường khách du lịch thành phố.

- Ngành du lịch thành phố tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu của cả nước, với xu hướng phát triển của thị trường khách quốc tế chuyển dịch sang phương Đông, các điểm du lịch tại Việt Nam được nước ngoài chú ý, các loại hình du lịch mới theo dạng tour mở, loại hình du lịch khám phá, MICE, chữa bệnh cũng như thị trường du lịch nội địa, khách trong nước đi du lịch nước ngoài gia tăng mạnh mẽ. Thành phố đã có sự quan tâm đến việc đầu tư các nguồn tài nguyên du lịch, hạn chế sự xuống cấp và cạn kiệt của các nguồn tài nguyên cũ, tăng cường khả năng tạo sản phẩm du lịch mới, đa dạng hóa sản phẩm du lịch.

- Nhà nước và các ban ngành liên quan rất quan tâm và đề cao vai trò của ngành du lịch, các báo đài tham gia tích cực trong tuyên truyền quảng bá đối với doanh nghiệp. Cùng với sự nỗ lực chỉ đạo định hướng của ngành, hầu hết các doanh nghiệp đã và đang chủ động đưa ra nhiều biện pháp nhằm thu hút khách trong đó tập trung vào đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, mở tour mới, nâng cao chất lượng tour hiện có, liên kết với nhau để cùng cạnh tranh lành mạnh và hợp lực phát triển.


- Trình độ của đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, quản lý ngày càng được nâng cao, có kinh nghiệm, chuyên môn giỏi so với các tỉnh thành khác trong cả nước. Vì vậy có thể đáp ứng cho việc chuẩn bị, đáp ứng từng bước yêu cầu của nền kinh tế khi hội nhập.

- Khả năng tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao theo hướng chuyên nghiệp, do đó sản phẩm ngày càng có chất lượng. Sự quan tâm của chính quyền và các doanh nghiệp cho việc đầu tư nâng cấp các nguồn tài nguyên du lịch ngày càng cao. Có nguồn lực tài chính mạnh và cơ chế chính sách huy động vốn linh hoạt cho phép chủ động nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh. Hệ thống giao thông rất thuận lợi về đường hàng không, đường biển, đường thuỷ và đường bộ, cùng với hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư khá hoàn chỉnh.

- Luật Du lịch và các văn bản dưới luật có hiệu lực thực tiếp tục đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ - thương mại tạo ra sự tập trung phát triển có tính đột phá cho 9 nhóm ngành dịch vụ trong đó có du lịch. Bên cạnh đó sự phối kết hợp ngày càng gắn bó trong việc triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển du lịch thông qua vai trò Ban chỉ đạo phát triển du lịch thành phố. Việc quảng bá xúc tiến của du lịch và các ngành thương mại - dịch vụ, việc nâng cao hình ảnh đất nước, con người Việt Nam cùng với nhiều sự kiện lớn cùng với việc ngày càng mở thêm nhiều đường bay quốc tế từ thành phố đi các nước, sự tham gia của các hãng hàng không giá rẻ, môi trường thành phố được cải thiện góp phần thu hút khách du lịch quốc tế.

2.2.6.2. Những hạn chế, yếu kém

- Sản phẩm du lịch của thành phố còn đơn điệu, trùng lắp, chất lượng chưa cao, chưa xây dựng được sản phẩm du lịch đặc trưng của thành phố. Cần có một sự phối hợp để tạo ra sản phẩm du lịch đa dạng, hấp dẫn mang đặc thù của TP.HCM. Chất lượng sản phẩm du lịch chưa thực sự làm thỏa mãn những nhu cầu đa dạng của khách hàng, phong cách phục vụ chưa đồng bộ trong từng doanh nghiệp cùng ngành. Do đó, thời gian lưu trú của khách tại thành phố bình quân chỉ khoảng 2,7 ngày/khách/lượt. Cơ sở kinh doanh du lịch, tham quan vui chơi giải trí còn đơn điệu


và bị xuống cấp, cơ sở vật chất thiếu đồng bộ ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ khách. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng tăng của du khách.

- Hầu hết các doanh nghiệp được đầu tư hệ thống thông tin hiện đại nhưng chưa biết khai thác tối đa phương tiện hiện đại này trong nghiên cứu, dự báo và khai thác thị trường. Chưa quan tâm và hiểu rõ về công tác marketing, hầu hết các doanh nghiệp đều hình thành bộ phận marketing, nhưng việc bố trí nhân sự thiếu tính chuyên nghiệp làm hiệu quả kinh doanh chưa cao, chưa phát huy được vai trò quảng bá và xúc tiến hoạt động kinh doanh du lịch.

- Chưa có các loại hình giải trí hấp dẫn phù hợp thu hút khách du lịch, cơ sở du lịch, tham quan, vui chơi giải trí hiện có không có gì hấp dẫn, nhỏ lẻ, chủ yếu phục vụ khách nội địa, qui mô nhỏ rời rạc. Có chính sách cụ thể để kêu gọi đầu tư nước ngoài, các hạng mục hiện có có thể mở rộng quy mô, nâng cấp và đầu tư để phục vụ cho cả khách quốc tế.

- Cơ sở vật chất phục vụ du lịch trên địa bàn thành phố vượt trội hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh trong nước và có thể cạnh tranh được với các trung tâm du lịch khác trong khu vực nếu ngành du lịch biết đưa ra một chiến lược đúng đắn về chất lượng, giá cả và biết sử dụng có hiệu quả các lợi thế của mình. Tuy nhiên, chỉ có hệ thống khách sạn để phục vụ du khách thôi thì chưa đủ, việc thiếu các khu vui chơi giải trí, khu du lịch, khu mua sắm lớn và các dịch vụ liên quan… bên cạnh đó cơ sở hạ tầng của du lịch còn lạc hậu, thiếu thốn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đã làm giảm thời gian lưu trú của du khách và nguồn thu du lịch.

- Nguồn nhân lực trong ngành du lịch còn thiếu, yếu về trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ và kiến thức xã hội, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách đòi hỏi cao, nhất là đối với khách du lịch quốc tế. Vì vậy, cần chú trọng nhiều hơn cho việc đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng ngay các chương trình đào tạo thích hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu hội nhập. Số lao động thành thạo ngoại ngữ còn hạn chế, đặc biệt biết nhiều ngoại ngữ còn rất ít với những thị trường nói tiếng Nhật,


tiếng Hàn. Nguồn nhân lực quản trị cao cấp chuyên ngành thiếu trầm trọng, lực lượng lao động trong ngành đa số chưa được đào tạo bài bản.

- Quản lý ngành du lịch còn lúng túng, chưa khai thác được thế mạnh liên ngành trong hoạt động xúc tiến và tạo nên hình ảnh chung của ngành. Việc tổ chức quản lý của ngành du lịch chưa thật sự là đầu mối với liên kết, định hướng các doanh nghiệp, chưa tạo được một môi trường du lịch chung mang nét đặc trưng của thành phố, cạnh tranh không lành mạnh, môi trường du lịch chưa tốt… do đó cần tăng cường và đầu tư cho việc ứng dụng những công nghệ mới trong quản lý du lịch, mạnh dạn thay đổi cơ cấu tổ chức và cập nhật kiến thức quản lý mới. Bên cạnh đó, việc phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa các đơn vị thành viên trong hiệp hội du lịch thành phố chưa nhịp nhàng, chặt chẽ nên không phát huy được sức mạnh hệ thống, ít nhiều làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động du lịch.

- Bộ máy, phương thức quản lý của ngành du lịch thành phố còn nhiều bất hợp lý chưa tương xứng với sự phát triển của các doanh nghiệp du lịch, bên cạnh đó tệ nạn ăn xin, đeo bám, chèo kéo du khách trên đường phố vẫn chưa được giải quyết triệt để. Một số dự án hạ tầng chậm được đầu tư xây mới, nâng cấp như trung tâm hội nghị, hội chợ, triển lãm có qui mô tương xứng hoặc cảng du lịch đường thủy đúng nghĩa để góp phần thu hút nhiều loại hình quốc tế, nâng mức chi tiêu bình quân và kéo dài ngày lưu trú của khách tại thành phố.

2.2.6.3. Những vấn đề đặt ra đối với ngành du lịch TP.HCM

Thách thức của toàn cầu hóa có thể làm tăng khoảng cách tụt hậu về kinh tế và du lịch của Việt Nam so với thế giới. Chính phủ có thể hạn chế tác động này bằng cách cải thiện môi trường đầu tư, ban hành chính sách thuận lợi, khuyến khích đầu tư, cải cách hành chính, chống tham nhũng. Hệ thống hành chính còn trì trệ, chưa hiện đại hóa, làm nản lòng nhiều doanh nghiệp du lịch và du khách, đòi hỏi Chính phủ và chính quyền thành phố phải đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng “Chính phủ kiến tạo”, mô hình ''Chính phủ điện tử''.

Sự phát triển kinh tế và du lịch tạo thách thức và đòi hỏi ngày càng cao đối với ngành du lịch thành phố. Để phát triển du lịch thành phố cần đa dạng hóa sản


phẩm, mở rộng và nâng cấp cơ sở vui chơi, giải trí…đáp ứng kịp thời yêu cầu của du khách.

Sự ô nhiễm môi trường nước, không khí, kẹt xe, tiếng ồn làm hạn chế khả năng thu hút du khách. Thành phố cần hạn chế bằng cách tạo cảnh quan môi trường trong sạch, di dời những nhà máy ra khu vực ngoại thành, tăng cường khả năng vận chuyển công cộng, phát triển hệ thống giao thông, hạn chế lượng xe gắn máy lưu thông. Thành phố cần giải quyết tốt các tệ nạn xã hội như: cướp giật, chèn ép khách, vệ sinh thực phẩm... làm du khách không an tâm. Cần có các cơ quan chuyên trách bảo vệ du khách khi có sự cố. Cần có biện pháp chống độc quyền, thực hiện tiết kiệm nhằm giảm giá thành sản phẩm liên quan đến du lịch để thu hút du khách.

Tình hình chính trị tại một số khu vực trên thế giới vẫn còn bất ổn những diễn biến chưa lường trước được, cạnh tranh du lịch trong khu vực và quốc tế ngày càng gay gắt. Xu thế hội nhập là một thuận lợi nhưng cũng là một thách thức lớn đối với ngành du lịch thành phố. TP.HCM có vị trí vô cùng thuận lợi nên có thể giao lưu với các khu vực lân cận, là cửa ngõ chính Việt Nam ra với thế giới; với nguồn tài nguyên nhân văn đa dạng, con người năng động, hoạt bát, chịu khó học hỏi và thân thiện dù nguồn tài nguyên tự nhiên không nhiều nhưng tiềm năng du lịch còn rất lớn. TP.HCM có lợi thế là một điểm trung chuyển khách trong khu vực, tuy nhiên ưu thế đang dần mất đi do nhiều hãng hàng không đã và sẽ mở nhiều đường bay quốc tế trực tiếp tới các điểm đến trong nước như Hà Nội, Đà Nẵng.


TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Trong chương 2 tác giả đã phân tích đánh giá tổng quan hoạt động du lịch trên địa bàn TP. HCM bao gồm lượng khách du lịch, doanh thu từ hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố, cùng với tác động hội nhập đối với sự phát triển của ngành du lịch. Đồng thời, tác giả đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của ngành du lịch TP.HCM trên các mặt như: lượng khách du lịch đến thành phố, doanh thu từ du lịch. Đồng thời, phân tích các sản phẩm du lịch của TP.HCM bao gồm du lịch kết hợp chữa bệnh, du lịch kết hợp mua sắm, du lịch hội nghị – MICE, đánh giá thực trạng quảng bá, xúc tiến du lịch; thực trạng về cơ sở vật chất và đầu tư cho du lịch; thực trạng nguồn nhân lực; thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với du lịch. Từ đó, rút ra những kết quả đạt được, những mặt hạn chế, yếu kém và những vấn đề đặt ra đối với ngành du lịch thành phố, làm cơ sở cho việc đề ra những phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển du lịch TP. HCM trong hội nhập quốc tế.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 29/08/2022