Đối tượng
Di tích lịch sử và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh KhiêmPhạm vi nghiên cứu:
Thời gian
- Tập trung nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của di tích đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm 1585 đến 2012.
- Tìm hiểu về lễ hội đền Trạng từ 1927 đến 2012. Không gian
Khu di tích, lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
Ngoài ra tác giả còn có sự tìm hiểu về những đi tích liên quan đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại các địa phương khác ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Thái Bình, Nam Bộ
4. Phương pháp nghiên cứu
Công trình nghiên cứu dựa trên cơ sở thế gới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về nghiên cứu Lịch sử. Khi nghiên cứu đề tài, người viết sử dụng kết hợp giữa phương pháp lịch sử, phương pháp logic là phương pháp chủ đạo.
Bên cạnh đó, khóa luận còn sử dụng phương pháp: miêu tả, tường thuật, sưu tầm, thu thập, xử lí tư liệu, thống kê, phân tích, so sánh để xác minh sự kiện, nội dung lịch sử.
Có thể bạn quan tâm!
- Di tích lịch sử và lễ hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng - 1
- Di tích lịch sử và lễ hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng - 3
- Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Trong Tâm Thức Của Người Dân Việt Nam
- Nhà Thờ Song Thân Phụ Mẫu Của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Cùng Với Sự Đóng Góp Của Du Khách Thập Phương Gần Xa, Ngày Càng Có
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
5. Đóng góp của khóa luận
Về mặt lý luận: Đề tài góp phần vào việc tìm hiểu về danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quá trình hình thành và phát triển của ngôi đền cùng với các di tích liên quan tới ông. Bên cạnh đó, công trình cũng nghiên cứu những giá trị truyền thống còn được lưu giữ lại trong lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Về mặt thực tiễn: Khóa luận có đóng góp về mặt tư liệu cho những ai quan tâm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng với những di tích và lễ hội đền liên quan đến ông. Qua đó có thể thấy được giá trị về mặt văn hóa, tư tưởng, giáo dục, kinh tế để vạch ra những chính sách bảo tồn, tôn tạo di tích cùng lễ hội sao cho hợp lý.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về thân thế sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chương 2: Di tích lịch sử và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng
Chương 3: Vai trò, đặc điểm di tích lịch sử và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THÂN THẾ SỰ NGHIỆP TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI, VĂN HÓA HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG
Điều kiện tự nhiên:
Huyện Vĩnh Bảo nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam thành phố Hải Phòng, có diện tích đất tự nhiên trên 180 km2, dân số trên 19 vạn (16.1). Huyện nằm trên vùng hạ lưu sông Thái Bình, bao bọc quanh là sông Luộc, sông Hóa. Phía Đông Bắc giáp huyện Tiên Lãng (Hải Phòng). Phía Tây bắc giáp huyện Ninh Giang, Tứ Kỳ (tỉnh Hải Dương). Phía Đông Nam, Tây Nam giáp huyện Quỳnh Phụ, Thái Thuỵ (tỉnh Thái Bình). Vĩnh Bảo có quốc lộ 10 và quốc lộ
37 đi qua là điểm nối giữa Quảng Ninh, Hải Phòng và các tỉnh phía Nam.
Chính trị:
Huyện có 1 thị trấn và 29 xã (Tam Đa, Nhân Hòa, Hưng Nhân, Giang Biên, Dũng Tiến, Việt Tiến, Vĩnh An, Vĩnh Long, Thắng Thủy, Trung Lập, Hiệp Hòa, An Hòa, Hùng Tiến, Tân Liên, Tân Hưng, Vinh Quang, Đồng Minh, Thanh Lương, Cộng Hiền, Tiền Phong, Vĩnh Phong, Cao Minh, Tam Cường, Liên Am, Cổ Am, Lý Học, Hòa Bình, Vĩnh Tiến, Trấn Dương).
Kinh tế - Văn hóa – Xã hội:
Vĩnh Bảo là địa phương giàu truyền thống lịch sử cách mạng, văn hoá, truyền thống hiếu học, là quê hương của Danh nhân văn hoá Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Lịch sử hình thành vùng quê Vĩnh Bảo gắn với giai đoạn phát triển châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình. Mảnh đất này từ ngàn xưa đã có nghề trồng lúa nước. Quá trình hình thành đất đai, sự xuất hiện của cộng đồng làng
xã và cung cách làm ăn đã tạo nên một Vĩnh Bảo có nền văn hóa đậm nét xứ Đông – vùng văn hóa Bắc Bộ. Do vậy, Vĩnh Bảo không chỉ là huyện trọng điểm lúa của Hải Phòng, mà còn là một vùng quê giầu truyền thống văn hóa. Nơi đây, một thời Việt cổ đã từng ghi những dấu ấn vàng son về đạo đức, về võ công, về sự nghiệp kinh bang tế thế.
Từ một nghìn năm trăm năm trước (504) đã có Nguyên soái Cao Đức Lang (người làng Hu Trì – Vinh Quang) từng được biết đến với “Đinh tiền, Lê hậu nhất nhân” gắn liền với sự nghiệp của Lý Bí dựng nước Vạn Xuân. Rồi đến thế kỷ XIII, có đô đốc Quận công Hoa Duy Thành (Đồng Minh) đã từng nổi danh trong việc hộ giá vua Trần đánh giặc, tham chiến trên Bạch Đằng giang, bắt sống tướng giặc Ô Mã Nhi. Được vua Trần sắc phong: “Hùng kiệt dũng quả, Hổ quốc an dân, Đương cảnh thành hoàng, Ngưng Hưu Trung Đẳng thần”
Sử sách thời xưa đã từng ghi rằng: Vĩnh Bảo có nhiều người đỗ đại khoa, có một trạng nguyên, một bảng nhãn, một hoàng giáp, một phó bảng và 11 đồng tiến sĩ [12, tr.8]. Tiêu biểu nhất là danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), một nhà trí thức rực rỡ một thời và tiêu biểu cho nhiều tầng lớp trí thức Việt Nam. Đó là Tô Phú Vượng (Bảo Hà – Đồng Minh) một nghệ nhân, người trong tù dùng ngón tay khắc nên đàn voi từ những hạt gạo, được vua Lê phong là Hoàng Tín đại phu Kỳ tái hầu...
“Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện”, thành ngữ này giới thiệu một địa danh tiêu biểu cho “đất học”, “đất quan” ở hai vùng xứ Đông và xứ Nam. Cổ Am là vùng quê tiêu biểu cho Vĩnh Bảo giàu truyền thống văn hóa và hiếu học. Ngày xưa, là tiến sĩ Trần Công Hân (khoa Ất Sửu – 1775), ngày nay có tới 40 người có học vị tiến sĩ, trong đó có nhiều nhà khoa học, văn nghệ sĩ có tên tuổi [12, tr.8].
Kinh tế của Vĩnh Bảo chủ yếu nông nghiệp và thủ công nghiệp đặc biêt có nhiều nghề thủ công truyền thống khá nổi tiếng như: dệt vải, dệt thảm, chiếu
cói, mây tre đan, tạc tượng, sơn mài, điều khắc gỗ, thêu mỹ nghệ, thuốc lào...đó đều là những nghề truyền thống rất có tiềm năng cần được đầu tư phát triển.
Với một bề dày lịch sử cũng như sự phong phú về văn hóa Vĩnh Bảo được lưu giữ như “bảo tàng sống” ở các nghành nghề truyền thống, lễ hội dân gian ở các làng xã. Có thể kể đến nghề dệt vải Cổ Am nổi tiếng ở Kinh kỳ từ thế kỷ XV, nghề sơn mài, điêu khắc, tạc tượng ở Đồng Minh, “Bàn tay ta khắc gỗ nên vàng” của các nghệ nhân làng nghề Bảo Hà với lối tả thực sinh động, tạo nên dòng tượng độc đáo, đậm yếu tố dân gian. Tượng ở đây có hồn, chiêm ngưỡng dòng tượng này ta thấy được cả mạch máu đang chảy, tiếng cười sảng khoái mãn nguyện sau mỗi việc làm, cả tiếng thở dài trước nhân tình thế thái. Pho tượng Nguyễn Công Huệ, tượng Linh Lang Đại Vương, hàng chục pho tượng Phật đang thờ ở miếu Bảo Hà, chùa Miễu (Đồng Minh) là những kiệt tác do con cháu Kỳ tài hầu Tô Phú Vượng nối nhau chế tác.
Đặc sắc hơn cả là từ vỏ dừa, xơ mướp, hoa quả trong vườn, qua “bàn tay vàng” của các nghệ nhân Nhân Mục (Nhân Hòa) trở thành các con giống, những mâm ngũ quả, những rồng, phượng, chim muông... nhiều màu sắc, nhiều dáng cầu kỳ tinh xảo, dựng lại những huyền thoại dân gian của làng. Những bàn tay tàu hoa ấy còn tạo nên cả ngôi cổ tự mà chỉ bằng những dóng mía xếp, quả cà, quả ớt...Hơn 20 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng và hệ thống đình, đền, chùa, miếu hiện có ở hầu khắp các làng xã Vĩnh Bảo được bảo tồn đến ngày nay không những là bằng chứng về sự tham gia của những chủ nhân đất Vĩnh Bảo từ thời Hùng Vương; là nguồn tư liệu lịch sử, mà còn là những công trình kiến trúc độc đáo của cha ông, là kết tinh tài hoa, khiếu thẩm mỹ của người Vĩnh Bảo, vốn quý của kho tàng văn hóa một vùng. Đó là đình An Quý (cột đá, thềm đá), đình Quán Khái (Vĩnh Phong), đình Nhân Mục, miếu Cựu Điện (Nhân Hòa)...Chùa trăm cột (Vĩnh Tiến) có quy mô bề thế mà thanh thoát, uyển chuyển do mái đao cong vút “cửa tùng, khung
khách” các bộ vì kèo, đầu rư...đặc biệt là cửa võng, hoành phi tinh xảo. Đồ tế khí tế tự, bát hương, chân đèn, ngũ sự, bát bửu có niên đại từ thế kỷ XI đến XVII cuả đình Mục. Hay ngọn núi nhân tạo lớn nhất Hải Phòng ở miếu Cựu Điện (Nhân Hòa) có đủ suối khe, có thiền am, có đài điếu ngư...tạo nên cảnh sơn thủy hữu tình là những bảo vật, những công trình kiến trúc nghệ thuật dân tộc độc đáo.
Lễ hội dân gian ở Vĩnh Bảo chứa đựng nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần gắn liền với những di tích lịch sử, văn hóa, những kỳ tích của các danh nhân, danh tướng và những tập tục sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của địa phương. Đó là hội thi pháo đất ở các xã thuộc tổng Đông (Tân Liên, Việt Tiến, Vĩnh An) và tổng Bắc (Thắng Thủy, An Hòa...) mà tương truyền có từ thời Hai Bà Trưng, là thú chơi độc đáo của cư dân lúa nước, mang sắc thái dân gian, thể hiện sự gắn bó với đất đai và tràn đầy tinh thần thượng võ.
Vĩnh Bảo còn rất nổi tiếng với nghệ thuật múa rối nước ở Nhân Hòa, múa rối cạn Đồng Minh. Mỗi một nơi có những nét độc đáo riêng của mình. Rối nước Nhân Hòa với những tích trò đa dạng, gần gũi với đời thường. Đáng quý là cảnh chế tác các loại pháo hoa, có loại pháo phụt lên tỏa sáng từ dưới mặt nước, có loại pháo đầy màu sắc trên không trung tạo ra không khí náo nhiệt, huyền ảo, kỳ vĩ của buổi diễn. Phường rối cạn Bảo Hà – Đồng Minh lại có nghệ thuật độc đáo khác. Nghệ nhân ở vùng này cũng tự chế tác các con giống, họ đều khiển con rối khác hẳn với các phường rối khác ở Việt Nam. Đỉnh cao tài năng là ở: Con rối tự mặc áo, cởi áo, phi ngựa. Trò diễn cũng vậy, những sinh hoạt đời thường, những vở Thạch Sanh, Trương Viên, những đoạn trích chèo cổ đều được phường dàn dựng biểu diễn bởi bàn tay thông minh, tài nghệ. Nghệ thuật làm con rối và làn điệu chèo, các lời thoại mộc mạc cũng đủ quyến rũ du khách trong và ngoài nước khi tới thưởng thức.
Văn hóa ẩm thực Vĩnh Bảo cũng có những nét riêng. Trước hết là các loại bánh: bánh trôi, bánh hú, bánh khoai, bánh đúc...được chế biến từ nông sản: gạo, ngô, khoai, đỗ, sắn, lạc, vừng...
Nhân dân Vĩnh Bảo luôn cố gắng giữ gìn và phát huy truyền thống của vùng quê văn hóa, Vĩnh bảo đã sưu tầm và xây dựng được phòng truyền thống, đầu tư mở mang, nâng cấp khuôn viên một số di tích lịch sử, văn hóa, đầu tư khai thác và phát huy tiềm năng văn hóa dân gian các làng xã.
Với bề dày lịch sử và phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội cùng với sự quan tâm của các cấp ủy chính quyền, sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân và với truyền thống của quê hương Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, mảnh đất hứa hẹn những bước đi vững chắc trong thế kỷ XXI.
1.2. THÂN THẾ SỰ NGHIỆP CỦA TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), năm Hồng Đức thứ 21 đời vua Lê Thánh Tông. Thủa nhỏ ông có tên là Nguyễn Văn Đạt. Ông sinh ra và lớn lên tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
Cha của Nguyễn Bỉnh Khiêm tên là Nguyễn Văn Định được phong tước Thái Bảo nghiêm quận công, đạo hiệu là Cù Xuyên tiên sinh. Cụ văn Định học rộng tài cao, có đức tốt đã có lần sung chức Thái học sinh đời Lê.
Mẹ Trạng là Nhữ Thị Thục – Từ thục phu nhân, là con quan Thượng thư Bộ Hộ Nhữ Văn Lan ở làng Am Tử Hạ (Tiên Lãng). Bà là một người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ, khác thường, nổi tiếng là người tinh thông Hán học và giỏi thuật số. Bà kén chồng, khi ngoài 30 tuổi, thấy Văn Định có tướng sinh quý tử mới lấy.
Nguyễn Văn Đạt từ nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng, lại được bố mẹ hết lòng dạy dỗ, rèn cặp nên năng khiếu thông minh ngày càng bộc lộ. Một tuổi
đã nói sõi, năm tuổi đã thuộc nhiều thơ ca quốc âm do mẹ truyền khẩu. Sau này Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thừa nhận ông chịu nhiều ảnh hưởng của giáo dục gia đình: “Tôi lúc nhỏ được dạy dỗ của gia đình, trưởng thành thi đỗ ra làm quan, cuộc đời ưa ẩn dật” (Bạch Vân Am thi tập)
Năm 1497, khi lên 7 tuổi Nguyễn Văn Đạt phải sống với cha, vì mẹ đã bỏ về quê ngoại vì bất đồng với cha trong việc dạy dỗ con cái. Nguyễn Văn Đạt theo học thầy Dương Đức Nhan – Người Hà Dương (Cộng Hiền).
Năm 18 tuổi (1509), Nguyễn Văn Đạt vào Thanh Hóa theo học Đình nguyên Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng, một người nổi tiếng tinh thông Lý học đã đem sở học Dịch lý truyền dạy cho các học trò yêu của mình. Sau đó, nhân việc về quê dự tang cha, Nguyễn Văn Đạt ở quê nhà mở trường dạy học. Học trò các nơi theo học rất đông, nhiều người tận Sơn Tây, Kinh Bắc, Thăng Long...về thụ giáo.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê xưng hoàng đế, đổi niên hiệu là Minh Đức, lấy Cổ Trai (Kiến Thụy) làm Dương Kinh lập ra nhà Mạc. Lúc này Nguyễn Văn Đạt đã ngoài 30 tuổi và nhà Mạc đã tổ chức hai kỳ thi 1529 – 1532, ông vẫn không ra ứng thi.
Tới năm 1535, mùa xuân Kỷ Mùi niên hiệu Nguyễn Hòa thứ 3 đời Mạc Đăng Doanh, Nguyễn Văn Đạt đổi tên thành Nguyễn Bỉnh Khiêm dự thi Hội ở Văn miếu Mao Điền (Trấn lỵ Hải Dương) ông đỗ đầu (Hội Nguyên). Tiếp đó vào thi Đình để xếp hạng cao thấp ông lại đỗ đầu ba giáp Tiến sĩ đạt danh hiệu Tiến sĩ cập đệ nhất danh (Trạng Nguyên). Sau đó vua Mạc bổ nhiệm chức Đông các hiệu thư, rồi Tả thị lang Bộ Hình, rồi đông các Đại học sĩ, Tả thị lang bộ lại.
Song chẳng được bao lâu Mạc Đăng Doanh chết (1540), con là Mạc Phúc Hải lên thay, nội bộ triều đình bất ổn, các phe đảng hình thành, gian thần thao túng chính sự. Tháng 8 năm Nhâm Dần 1542, sau khi dâng sớ xin