Bảo Vệ Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hoá Cộng Đồng

Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động DLST, tạo ra sự khác biệt rõ ràng giữa DLST với các loại hình du lịch. Du khách khi rời khỏi nơi mình đến tham quan sẽ phải có được sự hiểu biết cao hơn về các giá trị của môi trường tự nhiên (MTTN), về đặc điểm sinh thái khu vực và VHBĐ. Với những hiểu biết đó, thái độ ứng xử của du khách sẽ thay đổi, được thể hiện bằng những nỗ lực tích cực hơn trong hoạt động bảo tồn và phát triển những giá trị về tự nhiên, sinh thái và văn hoá khu vực.

1.1.4.2. Bảo vệ môi trường và duy trì HST

Đối với loại hình DLST, vấn đề bảo vệ môi trường là một trong những nguyên tắc cơ bản, cần tuân thủ, bời vì:

- Việc bảo vệ môi trường và duy trì các HST là mục tiêu hoạt động của DLST.

- Sự tồn tại của DLST gắn liền với MTTN và các HST điển hình như: sự xuống cấp của môi trường, sự suy thoái của các HST đồng nghĩa với việc đi xuống của hoạt động DLST.

Với nguyên tắc này, mọi hoạt động DLST sẽ phải được quản lý chặt chẽ để giảm thiểu tác động tới môi trường, đồng thời một phần thu nhập từ hoạt động DLST sẽ được đầu tư để thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường và duy trì sự phát triển các HST.

1.1.4.3. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá cộng đồng

Đây được xem là một trong những nguyên tắc quan trọng đối với hoạt động DLST, bởi các giá trị VHBĐ là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời các giá trị môi trường của HST ở một khu vực cụ thể. Sự xuống cấp hoặc thay đổi tập tục, sinh hoạt văn hóa truyền thống của CĐĐP dưới tác động nào đó sẽ làm mất đi sự căn bằng sinh thái vốn có của khu vực và vì vậy sẽ làm thay đổi HST đó. Hậu quả của quá trình này sẽ tác động trực tiếp đến DLST.

Chính vì vậy, việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa CĐĐP có ý nghĩa quan trọng và là nguyên tắc hoạt động của DLST.

1.1.4.4. Tạo cơ hội việc làm và mang lại lợi ích cho CĐĐP

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Đây vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu hướng tới của DLST. Nếu như các loại hình du lịch thiên nhiên khác ít quan tâm đến vấn đề này và phần lớn lợi nhuận từ các hoạt động du lịch đều thuộc về các công ty điều hành thì ngược lại, DLST sẽ dành một phần đáng kể lợi nhuận từ hoạt động của mình để đóng góp nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của CĐĐP.

Ngoài ra, DLST luôn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người dân địa phương như: đảm nhiệm vai trò HDV, đáp ứng chỗ nghỉ cho khách, cung ứng các nhu cầu về thực phẩm, hàng lưu niệm cho khách… Thông qua đó sẽ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho CĐĐP. Kết quả là cuộc sống của người dân sẽ ít bị phụ thuộc hơn vào việc khai thác tự nhiên đồng thời họ sẽ nhận thấy lợi ích của việc bảo vệ các nguồn TNTN để phát triển DLST. Sức ép của cộng đồng đối với môi trường vốn đã tồn tại từ bao đời nay sẽ giảm đi và chính CĐĐP sẽ là những người chủ thật sự, những người bảo vệ trung thành các giá trị tự nhiên và VHBĐ nơi diễn ra các hoạt động DLST.

Phát triển du lịch sinh thái huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang - 4

1.1.5. Những yêu cầu của DLST‌


Đối với DLST, để hình thành và phát triển cần tuân thủ các yêu cầu sau đây: dựa trên các HST tự nhiên điển hình với tính ĐDST cao, đảm bảo tính giáo dục, hạn chế những tác động của hoạt động DLST đến tự nhiên và môi trường, thỏa mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết của khách du lịch [9], [15]:

1.1.5.1. Dựa trên các HST tự nhiên điển hình với tính ĐDST cao

Sinh thái tự nhiên là sự cộng sinh của các điều kiện tự nhiên bao gồm: sinh thái động vật, sinh thái thực vật, sinh thái khí hậu,...[9].

ĐDST là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của ĐDSH. ĐDST thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như: đất, nước, địa hình, khí hậu,..., đó là các HST và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật [9].

Như vậy có thể nói, DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các HST điển hình với ĐDST cao nói riêng và ĐDSH cao nói chung.

1.1.5.2. Đảm bảo tính giáo dục

Việc chủ động giáo dục gắn liền với bảo tồn có vai trò to lớn tạo nên sự bền vững cho DLST. Pigram đã nhận định: một trong những con đường có hứa hẹn nhất để đạt được mối quan hệ hòa hợp giữa du lịch với MTTN và xã hội là tăng cường giáo dục và thông tin. Quá trình này được thực hiện thông qua các nhà quản lý, điều hành và HDV [15].

Để nâng cao sự hiểu biết cho khách DLST và hướng hoạt động của họ theo chiều hướng có lợi cho môi trường nhất thiết phải có HDV am hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và VHBĐ để giới thiệu cho khách. Qua đó hình thành ở du khách lòng yêu quý và trân trọng thiên nhiên và văn hóa địa phương.

Trong DLST còn đòi hỏi phải có một hệ thống thông tin đầy đủ để cung cấp, hướng dẫn cho du khách. Đó là các ấn phẩm giới thiệu về ĐDSH, nét độc đáo của văn hóa địa phương; các bảng chỉ dẫn và nội quy tham quan. Các thông tin này cần phải được phổ biến đến từng du khách thông qua HDV, trung tâm đón khách và các phương tiện, thiết bị tiếp nhận và phân phối thông tin trên tuyến tham quan [15].

1.1.5.3. Hạn chế những tác động của hoạt động DLST đến tự nhiên và môi trường

Trong hoạt động DLST, tổ chức, quản lí không hợp lí gây ra nhiều vấn đề [9]: Liên quan đến sức chứa của lãnh thổ. Thứ nhất, nếu một lãnh thổ có số lượng khách tập trung quá đông vượt khả năng tiếp nhận của môi trường, làm xuất hiện các tác động sinh thái do hoạt động của du khách và tiện nghi mà họ sử dụng gây ra và ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường. Thứ hai, bản thân du khách sẽ cảm thấy khó chịu vì sự “đông đúc” và hoạt động của họ bị ảnh hưởng. Mức độ thỏa mãn của du khách bị giảm xuống dưới mức bình thường, những tác động này làm giảm sự hài lòng của du khách. Thứ ba, xuất hiện những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đến đời sống văn hóa-xã hội, kinh tế-xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của CĐĐP có

cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập. Thứ tư, năng lực quản lí (lực lượng nhân viên, trình độ và phương tiện quản lý...) sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả năng quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ ảnh hưởng đến môi trường và xã hội.

Để đảm bảo hoạt động DLST được PTBV, lâu dài phục vụ tốt nhu cầu của du khách, nhất thiết phải tổ chức, quản lí một cách hợp lí nhất để giảm thiểu những tác động đến tự nhiên và môi trường. Sự tác động quá mức sẽ gây ra những hậu quả có thể làm suy giảm, xuống cấp nhanh chóng của tài nguyên, môi trường, mất đi sự cân bằng lãnh thổ.

1.1.5.4. Thỏa mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết của khách du lịch

Việc thỏa mãn mong muốn của khách DLST về những kinh nghiệm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, VHBĐ thường là rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành DLST. Vì vậy những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì họ tham quan [9].

1.2. Tài nguyên du lịch sinh thái‌


1.2.1. Khái niệm tài nguyên du lịch sinh thái (TNDLST)‌


DLST là loại hình du lịch lấy thiên nhiên và VHBĐ làm cơ sở để phát triển. Nói đến TNDLST, không thể không kể đến TNTN; tuy nhiên, có sự gắn kết yếu tố du lịch vào trong tài nguyên nên được gọi là TNDL hay TNDLST. Như vậy:

“ TNDLST là các yếu tố cơ bản để hình thành các điểm, các tuyến hoặc các khu DLST; bao gồm: các cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, giá trị nhân văn, các công trình sáng tạo của nhân loại có thể được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu về DLST”[2].

TNDLST là một bộ phận cấu thành trong TNDL, bao gồm: các giá trị của tự nhiên thể hiện trong một HST cụ thể và các giá trị VHBĐ tồn tại và phát triển không tách rời khỏi HST tự nhiên đó. Tuy vậy, không phải bất cứ mọi giá trị tự nhiên và VHBĐ đều được xem là TNDLST, mà chỉ có các thành phần và các tổng thể tự nhiên, các giá trị văn hóa gắn với một HST cụ thể có thể được khai thác, được sử

dụng để tạo ra các sản phẩm DLST, phục vụ cho mục đích phát triển du lịch nói chung, DLST nói riêng mới được xem là TNDLST.

TNDLST bao gồm: tài nguyên đã và đang khai thác và tài nguyên mà triển vọng sẽ khai thác. Khả năng khai thác TNDLST phụ thuộc vào:

- Khả năng nghiên cứu, phát hiện và đánh giá các tiềm năng của tài nguyên.

- Mức độ yêu cầu để phát triển sản phẩm DLST nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và càng đa dạng của du khách.

- Khả năng tiếp cận để khai thác các tiềm năng của TNDLST.

- Trình độ tổ chức quản lý đối với việc khai thác TNDLST.

Khi nghiên cứu về DLST, ta thường gặp các thuật ngữ như: Hệ sinh thái, đa dạng sinh học, đa dạng sinh thái, văn hóa bản địa [9].

Hệ sinh thái: Là hệ cân bằng tự nhiên với tất cả các đặc thù của nó. Vũ trụ, Thái Dương hệ, Trái Đất và khí quyển được coi là sinh thái quyển bao gồm nhiều hệ thống cân bằng tự nhiên tồn tại trước khi sự sống xuất hiện, trong đó sinh quyển chỉ là một hệ thống cân bằng của sinh thái quyển được hình thành khi đã xuất hiện những cơ thể sống. Những sinh vật sống này tập hợp thành những quần thể sinh vật, tồn tại và phát triển trong sự cân bằng động, có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố như khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng.

Đa dạng sinh học: Là thuật ngữ tổng quát biểu hiện sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên, gồm toàn bộ các dạng sống được tạo nên trên Trái Đất.

Đa dạng sinh thái: Thể hiện sự đa dạng của các kiểu cộng đồng (các HST, các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật) khác nhau tạo nên cơ thể sống và mối liên hệ giữa chúng với nhau, cũng như mối liên hệ với các yếu tố vô sinh như đất, nước, khí hậu, địa hình...có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự sống.

Văn hóa bản địa: Là các giá trị về vật chất và tinh thần được hình thành trong quá trình phát triển của một cộng đồng dân cư, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa thế giới tự nhiên và con người trong không gian của một HST cụ thể. VHBĐ là một bộ phận đặc biệt của đa dạng văn hóa-một cấu thành quan trọng của ĐDSH, góp phần tạo nên nền văn hóa nói chung của một dân tộc, một quốc gia.

1.2.2. Đặc điểm TNDLST‌


1.2.2.1. TNDLST phong phú và đa dạng

TNDLST được hình thành trên nền tảng các tài nguyên trong tự nhiên, mà bản thân tự nhiên thì rất đa dạng và phong phú, vì thế TNDLST cũng có chung đặc điểm này. TNDLST bao gồm những HST đặc biệt, là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển của nhiều loài sinh vật quý hiếm. Như vậy, TNDLST có sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách [9].

1.2.2.2. TNDLST thường nhạy cảm với các yếu tố tác động

So sánh với nhiều loại tài nguyên du lịch khác, TNDLST thường rất nhạy cảm đối với những tác động của con người. Bất kỳ một sự tác động nào làm thay đổi tính chất của tự nhiên hoặc một hợp phần của tự nhiên hoặc làm suy giảm hay mất đi một số loài sinh vật cấu thành nên HST nào đó dưới tác động của con người sẽ là nguyên nhân làm thay đổi thậm chí làm biến mất HST đó và kết quả là một diễn thế sinh thái mới xuất hiện. Trong trường hợp này, TNDLST bị ảnh hưởng với những mức độ khác nhau [9].

1.2.2.3. TNDLST có thời gian khai thác khác nhau

Trong các loại TNDLST, có loại tài nguyên có thể khai thác được quanh năm, cũng có loại khai thác theo thời vụ; chủ yếu dựa vào các yếu tố khí hậu, mùa di cư, sự sinh sản của các loài sinh vật, đặc biệt là các loài đặc hữu, quý hiếm.

Du khách chỉ có thể đến thăm những vườn cây đặc sản như vải thiều, xoài cát, nhãn lồng...vào mùa hạ; cam giấy, cam đường...vào mùa đông.

Như vậy, để khai thác có hiệu quả TNDLST, các nhà quản lý, tổ chức điều hành cần có những nghiên cứu cụ thể về tính mùa của các loại tài nguyên để làm căn cứ đưa ra các giải pháp thích hợp [9].

1.2.2.4. TNDLST thường nằm xa các khu dân cư và thường được khai thác tại chỗ để tạo ra các SPDL

Một đặc điểm có tính đặc trưng của TNDLST là chúng thường nằm xa các khu dân cư; bởi chúng sẽ nhanh chóng bị suy giảm, biến đổi, thậm chí không còn nữa, do tác động trực tiếp của người dân như săn bắn, chặt cây… nhằm thỏa mãn nhu cầu

cuộc sống của mình. Điều này giải thích tại sao phần lớn TNDLST lại nằm trong phạm vi các VQG, KBTTN – nơi có sự quản lí chặt chẽ.

Khác với nhiều loại tài nguyên khác, sau khi được khai thác có thể vận chuyển đi nơi khác để chế biến tạo ra sản phẩm rồi lại đưa đến nơi tiêu thụ, tài nguyên du lịch nói chung, TNDLST nói riêng thường được khai thác tại chổ để tạo ra các sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của khách. Trong một số trường hợp thực tế có thể tạo ra những môi trường giống như MTTN với các vườn thực vật, công viên để du khách tham quan. Tuy nhiên, đây chưa phải là sản phẩm của DLST đích thực, chúng được tạo ra trong các khu đô thị, các thành phố lớn, nhằm phục vụ cho số người dân ít có điều kiện về với các khu tự nhiên [9].

Do những đặc điểm trên nên để khai thác có hiệu quả TNDLST, cần phải xây dựng CSHT, đặc biệt là hệ thống giao thông tiếp cận với những vùng giàu tài nguyên.

1.2.2.5. TNDLST có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài

Phần lớn các TNDL, trong đó có TNDLST được xếp vào nhóm tài nguyên có khả năng tái tạo, sử dung lâu dài. Điều này dựa trên khả năng tự phục hồi, tái tạo của tự nhiên. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều TNDLST đặc sắc như các loài sinh vật đặc hữu, quý hiếm hoàn toàn có thể mất đi do tự nhiên hoặc do tác động của con người. Vấn đề đặt ra là cần phải nắm được quy luật của tự nhiên, lường trước được những tác động của con người đối với tự nhiên nói chung, TNDLST nói riêng để có những định hướng, giải pháp cụ thể khai thác hợp lý, có hiệu quả; không ngừng bảo vệ tôn tạo và phát triển các nguồn tài nguyên vô giá này nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch [9].

Đây là yêu cầu sống còn của du lịch nhằm góp phần thực hiện chiến lược phát triển DLBV. Chỉ có phát triển DLBV mới đảm bảo cho nguồn TNDL trong đó có TNDLST ít bị tổn hại, nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển du lịch hiện tại mà còn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch nói chung, DLST nói riêng trong tương lai.

1.2.3. Phân loại TNDLST‌


TNDLST rất đa dạng và phong phú. Một số loại TNDLST chính thường được khai thác và phục vụ nhu cầu của khách DLST bao gồm:

1.2.3.1. Các HST tự nhiên đặc thù

Các HST này có tính đa dạng sinh học cao, nhiều loài sinh vật đặc hữu, quý hiếm. Bao gồm các các HST rừng; HST rừng ngập mặn ven biển; HST núi cao; HST đất ngập nước, ngập mặn; HST đầm lầy nội địa; HST Sông, hồ; HST đầm phá; HST san hô, cỏ biển; HST vùng cát ven biển; HST biển đảo; sân chim, cảnh quan tự nhiên... Thường được tập trung bảo vệ ở các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN), khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ)...

1.2.3.2. Các HST nông nghiệp

Bao gồm các vườn cây ăn trái, trang trại, làng hoa cây cảnh...hấp dẫn du khách, vừa là nơi để tham quan, ngắm cảnh, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất...

1.2.3.3. Văn hóa bản địa

Các giá trị VHBĐ có sự hình thành và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của HST tự nhiên, được khai thác với tư cách là TNDLST bao gồm:

- Kiến thức canh tác, khai thác, bảo tồn và sử dụng các loài sinh vật phục vụ cuộc sống của cộng đồng.

- Đặc điểm sinh hoạt văn hóa với các lễ hội truyền thống.

- Kiến trúc dân gian, công trình gắn với các truyền thuyết, đặc điểm tự nhiên của khu vực.

- Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ gắn liền với cuộc sống của cộng đồng.

- Các di tích lịch sử văn hóa, khảo cổ gắn liền với lịch sử phát triển, tín ngưỡng của cộng đồng [2].

Ngoài ra, tài nguyên DLST còn có thể phân loại một cách đơn giản như sau:

- Tài nguyên DLST tự nhiên: bao gồm tất cả các yếu tố thuộc về tự nhiên phục vụ cho các hoạt động DLST.

- Tài nguyên DLST nhân văn: bao gồm các giá trị văn hóa bản địa.


1.3. Thực tiễn phát triển du lịch sinh thái trên thế giới‌


1.3.1. Du lịch sinh thái ở Nhật Bản‌


Trong một hai thập kỷ gần đây, Nhật Bản đã nổi lên như một trong nước đi đầu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, từ hệ thống luật pháp đến ý thức và hành động của

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 20/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí