kém trực quan đến trực quan hơn gồm: các con số rời rạc, bảng số liệu, biểu đồ nhằm thể hiện các mối quan hệ và xu thế của sự vật.
Trong đề tài tác giả dùng phương pháp thống kê để thể hiện các số liệu dưới dạng bảng biểu về dân số, nguồn lao động, doanh thu du lịch, số lượng lao động phục vụ du lịch... Ngoài ra, tác giả còn thể hiện các số liệu dưới dạng biểu đồ như: hiện trạng khách du lịch, cơ cấu trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên du lịch…của Phú Quốc.
7. Những đóng góp chính của đề tài
Đề tài có những đóng góp chính như sau:
- Tổng quan cơ sở lí luận, thực tiễn về DLST và vận dụng vào việc nghiên cứu phát triển DLST Phú Quốc.
- Kiểm kê, đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển DLST Phú Quốc.
- Định hướng khai thác DLST Phú Quốc theo hướng đảm bảo mục tiêu và hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác hợp lý tiềm năng phát triển DLST gắn với việc bảo tồn và hỗ trợ phát triển cộng đồng.
8. Cấu trúc của luận văn
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch sinh thái huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang - 1
- Phát triển du lịch sinh thái huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang - 2
- Bảo Vệ Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hoá Cộng Đồng
- Du Lịch Sinh Thái Ở Vườn Quốc Gia Galapagos (Ecuador)
- Tiềm Năng Và Hiện Trạng Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Phú Quốc
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về DLST
Chương 2: Tiềm năng và hiện trạng phát triển DLST Phú Quốc Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển DLST Phú Quốc
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH SINH THÁI
1.1. Một số vấn đề về du lịch sinh thái
1.1.1. Khái niệm DLST
Vào thập niên 70 của thế kỷ XX, du lịch đại chúng vẫn chủ yếu chú trọng đến việc săn bắn các loài thú lớn. Chính sự việc này đã gây phiền nhiễu tới đời sống của các loài động vật hoang dã, phá hủy thiên nhiên và môi trường. Tuy nhiên, dần dần du khách cũng bắt đầu nhận thức được những tác hại sinh thái do họ gây ra và hơn thế nữa người dân địa phương cũng đã có sự quan tâm đến giá trị của tự nhiên và môi trường nên các tour du lịch chuyên về săn bắn chim, thú, cưỡi lạc đà, bộ hành thiên nhiên đã bắt đầu có sự hướng dẫn và quản lý nghiêm ngặt. DLST dần dần được định hình từ đây [2].
DLST (Ecotourism) là loại hình du lịch khá mới mẻ (mới thật sự được quan tâm từ thập kỷ 80) nhưng từng bước đã khẳng định được lý do tồn tại của nó (thập kỷ 90 của thế kỷ XX được coi như là “thập kỷ của DLST”) [2], [14].
Có người quan niệm DLST là loại hình du lịch có lợi cho sinh thái, ít có những tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của HST, nơi diễn ra các hoạt động du lịch. Cũng có ý kiến cho rằng: DLST đồng nghĩa với du lịch địa lý, du lịch có trách nhiệm, du lịch xanh, du lịch có lợi cho môi trường hay có tính bền vững [2].
Ở góc nhìn hẹp, xét về mặt chữ nghĩa DLST đơn thuần chỉ là sự kết hợp ý nghĩa của hai từ ghép “du lịch” và “sinh thái”. Tuy nhiên, trên thực tế khái niệm này phức tạp hơn nhiều và cho đến nay đã có rất nhiều khái niệm:
Năm 1987, nhà nghiên cứu tiên phong về DLST: Hector Ceballos - Lascurain đã đưa ra khái niệm tương đối hoàn chỉnh về DLST như sau: “DLST là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi, với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá” [9].
Năm 1991, Wood định nghĩa DLST như sau: “DLST là du lịch đến các khu vực còn tương đối hoang sơ với mục đích tìm hiểu về lịch sử môi trường tự nhiên và văn hóa mà không làm thay đổi sự toàn vẹn của các hệ sinh thái. Đồng thời tạo những cơ hội về kinh tế để ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích về tài chính cho người dân địa phương” [9].
Năm 1993, Lindberg và Hawkins đưa ra khái niệm rất ngắn gọn nhưng phản ánh khá đầy đủ về nội dung và chức năng của DLST. Theo đó: “DLST là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên, là công cụ để bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương” [2].
Ở mỗi quốc gia, mỗi tổ chức quốc tế đều phát triển những định nghĩa riêng của mình về DLST.
Định nghĩa của Nêpan: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch đề cao sự tham gia của nhân dân vào việc hoạch định và quản lí các tài nguyên du lịch để tăng cường phát triển cộng đồng, liên kết giữa bảo tồn thiên nhiên và phát triển du lịch, đồng thời sử dụng thu nhập từ du lịch để bảo vệ các nguồn lực mà ngành du lịch phụ thuộc vào” [9].
Định nghĩa của Malaixia: “Du lịch sinh thái là hoạt động du lịch và thăm viếng một cách có trách nhiệm về mặt môi trường, tới những khu thiên nhiên còn nguyên vẹn, nhằm tận hưởng và trân trọng các giá trị của thiên nhiên (và những đặc tính văn hóa kèm theo, trước đây cũng như hiện nay), mà hoạt động này sẽ thúc đẩy công tác bảo tồn, có ảnh hưởng của du khách không lớn và tạo điều kiện cho dân chúng địa phương được tham dự một cách tích cực, có lợi về xã hội và kinh tế” [9].
Định nghĩa của Ôxtrâylia: “Du lịch sinh thái là du lịch dựa vào thiên nhiên, có liên quan đến sự giáo dục và diễn giải về môi trường thiên nhiên, được quản lí bền vững về mặt sinh thái”.
Định nghĩa của Hiệp hội DLST quốc tế: “Du lịch sinh thái là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương”.
Năm 1994, nhấn mạnh đến yếu tố bảo vệ TNDL và giáo dục môi trường, Buckley đã tổng quát khái niệm DLST như sau: “ Chỉ có du lịch dựa vào thiên nhiên, được quản lý bền vững, hỗ trợ bảo tồn, và có giáo dục môi trường mới được xem là DLST” [9].
Như vậy, từ định nghĩa DLST được đưa ra đầu tiên vào năm 1987, sau nhiều năm và qua nhiều định nghĩa khác nhau đã cho thấy có sự thay đổi về quan niệm. Từ chỗ cho rằng DLST đơn thuần chỉ là loại hình du lịch mà địa bàn của nó là các khu vực tự nhiên còn tương đối hoang sơ và du khách đến đó ít có những hoạt động làm ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên sang cách nhìn tích cực hơn, đó là DLST còn có vai trò đóng góp cho bảo tồn, mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương (CĐĐP), có trách nhiệm và giáo dục cao về môi trường.
Mặc dù DLST vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Nhưng đa số ý kiến của các chuyên gia hàng đầu về DLST đều cho rằng DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lý theo hướng bền vững về mặt sinh thái, du khách sẽ được hướng dẫn tham quan với những diễn giải cần thiết về môi trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được giá trị thiên nhiên và văn hóa mà không gây ra những tác động không thể chấp nhận đối với các HST và VHBĐ. DLST nói theo một định nghĩa nào đi chăng nữa thì nó phải hội đủ các yếu tố cần:1). Sự quan tâm tới thiên nhiên và môi trường; 2). Trách nhiệm với xã hội và cộng đồng [2].
Trong lần Hội thảo Quốc gia về “Xây dựng chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam” (từ ngày 7 - 9/9/1999) do Tổng cục Du lịch Việt Nam tổ chức trên cơ sở phối hợp với nhiều Tổ chức Quốc tế như ESCAP, WWF, IUCN,..., với sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học quốc tế và Việt Nam về DLST. Định nghĩa DLST lần đầu tiên được đưa ra ở Việt Nam như sau: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có sự đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương” [9].
Có thể nói, định nghĩa do Hội thảo quốc gia về “Xây dựng chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam” đưa ra đã bao hàm đầy đủ nội dung của DLST. Nó bao quát được các quan niệm về DLST của các nhà khoa học trên thế giới.
Trên cơ sở định nghĩa có thể khái quát thành sơ đồ cấu trúc của DLST như sau:
Du lịch thiên nhiên, văn hóa bản địa
Du lịch hỗ trợ bảo tồn và giúp đỡ cộng đồng
Du lịch
Định nghĩa Du lịch sinh thái
Du lịch có giáo dục môi trường
Du lịch
được quản lý bền vững
Hình 1.1. Cấu trúc DLST
Nguồn: [8], [9][15]
1.1.2. Vai trò DLST
1.1.2.1. Lợi ích kinh tế
Với việc tổ chức DLST, các khu thiên nhiên, đặc biệt các KBTTN sẽ được đưa vào phục vụ du lịch, giúp tăng thêm nguồn tài nguyên cho ngành du lịch, góp phần đa dạng hóa SPDL. DLST phát triển góp phần tạo công ăn việc làm, thu nhập thêm cho các cộng đồng trong và quanh khu vực tổ chức hoạt động DLST, góp phần cải thiện tình hình kinh tế địa phương, xóa đói giảm nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh.
Góp phần cải thiện và nâng cao CSHT của các khu DLST, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của CĐĐP cùng với việc giáo dục môi trường giúp CĐĐP có kế
hoạch phát triển nguồn tài nguyên mà không bị xuống cấp trong quá trình khai thác và sử dụng.
DLST cũng góp phần khôi phục và phát triển những ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, thúc đẩy các ngành nghề khác cùng phát triển và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Vì vậy DLST mang lại lợi ích cho kinh tế rất lớn đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia, địa phương, đơn vị kinh doanh du lịch.
1.1.2.2. Lợi ích xã hội
Cùng với sự phát triển của đô thị hóa, con người ngày càng tách rời với môi trường tự nhiên, một số hình ảnh thiên nhiên chỉ còn tìm thấy trong ký ức, nhờ có sự phát triển của DLST nhu cầu tìm hiểu thiên nhiên của con người mới được đáp ứng.
1.1.2.3. Lợi ích thẩm mỹ
Mỗi một cảnh quan chứa đựng trong nó biết bao nhiêu vẽ đẹp, sự sinh động của thế giới tự nhiên và sự năng động trong cách thích ứng với thế giới tự nhiên của con người. Nơi DLST phát triển là nơi cảnh quan thiên nhiên được phát hiện, phát triển và bảo tồn.
DLST tạo điều kiện cho các nhà thiết kế tour tiến hành khảo sát các tuyến, điểm du lịch (ĐDL) nhằm bảo vệ nguồn TNTN, tài nguyên nhân văn. Sự khảo sát này kèm theo những nguyên tắc chặt chẽ như nghiêm cấm mọi hành vi phá hoại nguồn TNTN, cấm sờ mó vào các thạch nhũ, các công trình kiến trúc, văn hóa cổ,...thúc đẩy sự bảo tồn nguồn tài nguyên nhân văn.
1.1.2.4. Lợi ích sinh thái
Thông qua các hoạt động, DLST sẽ giúp cho các loài động thực vật quý hiếm được khôi phục, gìn giữ và bảo vệ sự đa dạng sinh học (ĐDSH) trên toàn thế giới, DLST góp phần giúp con người sống có trách nhiệm hơn với môi trường tự nhiên.
DLST kết hợp hài hòa cả 3 mục tiêu: kinh tế, xã hội, sinh thái. Do đó DLST là một loại hình du lịch bền vững, nó đảm bảo cho môi trường tự nhiên và xã hội không những không bị suy thoái mà còn được cũng cố phát triển lâu dài.
1.1.3. Các đặc trưng của DLST
Du lịch nói chung và DLST nói riêng đều được thực hiện trên cơ sở khai thác những giá trị của TNDLTN, văn hóa, lịch sử kèm theo các điều kiện về CSHT và dịch vụ. Kết quả hình thành các SPDL từ các tiềm năng về tài nguyên, đem lại nhiều lợi ích cho xã hội.
DLST là một dạng của hoạt động du lịch, do đó cũng bao gồm các đặc trưng cơ bản của hoạt động du lịch nói chung, bao gồm [9]:
1.1.3.1. Tính đa ngành
Tính đa ngành thể hiện ở đối tượng được khai thác để phục vụ du lịch (sự hấp dẫn về cảnh quan tự nhiên, các giá trị lịch sử, văn hóa, CSHT và các dịch vụ kèm theo...). Thu nhập xã hội từ du lịch cũng mang lại nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác nhau thông qua các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách du lịch (điện, nước, nông sản, hàng hóa...)
1.1.3.2. Tính đa thành phần
Biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du lịch, những người phục vụ du lịch, CĐĐP, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các tổ chức tư nhân tham gia vào hoạt động du lịch.
1.1.3.3. Tính đa mục tiêu
Biểu hiện ở những lợi ích đa dạng về BTTN, cảnh quan lịch sử-văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống của khách du lịch và người tham gia hoạt động dịch vụ du lịch, mở rộng sự giao lưu văn hóa, kinh tế và nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi thành viên trong xã hội.
1.1.3.4. Tính liên vùng
Biểu hiện thông qua các TDL, với một quần thể các ĐDL trong một khu vực, một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau.
1.1.3.5. Tính mùa vụ
Biểu hiện ở thời gian diễn ra hoạt động du lịch tập trung với cường độ cao trong năm. Tính mùa vụ thể hiện rõ nhất ở các loại hình du lịch nghỉ biển, thể thao
theo mùa...(theo tính chất của khí hậu) hoặc loại hình du lịch nghỉ cuối tuần, vui chơi giải trí...(theo tính chất công việc của những người hưởng thụ SPDL).
1.1.3.6. Tính chi phí
Biểu hiện ở chỗ mục đích đi du lịch là hưởng thụ các SPDL chứ không phải với mục tiêu kiếm tiền.
1.1.3.7. Tính xã hội hóa
Biểu hiện ở việc thu hút toàn bộ mọi thành phần trong xã hội tham gia (có thể trực tiếp hoặc gián tiếp) vào hoạt động du lịch.
1.1.3.8. Tính giáo dục cao về môi trường
DLST hướng con người tiếp cận gần hơn nữa với các vùng tự nhiên và các khu bảo tồn, nơi có giá trị cao về ĐDSH và rất nhạy cảm về mặt môi trường. Hoạt động du lịch gây nên những áp lực lớn đối với môi trường, và DLST được coi là chiếc chìa khóa nhằm cân bằng giữa mục tiêu phát triển du lịch với việc bảo vệ môi trường.
1.1.3.9. Góp phần bảo tồn các nguồn TNTN, duy trì tính ĐDSH
Hoạt động DLST có tác dụng giáo dục con người bảo vệ TNTN và môi trường, qua đó hình thành ý thức bảo vệ cũng như thúc đẩy các hoạt động bảo tồn, đảm bảo yêu cầu PTBV.
1.1.3.10. Thu hút sự tham gia của CĐĐP
CĐĐP là những người chủ sở hữu các nguồn TNTN tại địa phương. Phát triển DLST hướng con người đến các vùng tự nhiên hoang sơ, có giá trị cao về ĐDSH, điều này đặt ra một yêu cầu cấp bách là cần phải có sự tham gia của CĐĐP tại khu vực để bảo vệ nguồn tài nguyên đó. Sự tham gia của CĐĐP có tác dụng to lớn giáo dục du khách bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường, đồng thời góp phần nâng cao hơn nhận thức cho cộng đồng, tăng các nguồn thu nhập cho cộng đồng.
1.1.4. Các nguyên tắc của DLST
Hoạt động DLST được phát triển trên cơ sở những nguyên tắc sau [9]:
1.1.4.1. Có hoạt động giáo dục và diễn giải nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường, qua đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn