Những Yêu Cầu Cơ Bản Đối Với Du Lịch Sinh Thái

- Hỗ trợ bảo tồn, đảm bảo bền vững về sinh thái: Thách thức đối với DLST trong bất kỳ một quốc gia hay một khu vực nào là khai thác hợp lý tiềm năng cho du lịch, đảm bảo chất lượng sản phẩm mà lại không gây tác động có hại ngược trở lại môi trường. DLST có thể tạo ra nguồn thu cho việc quản lý bảo tồn nguồn tài nguyên ngoài những lợi ích về văn hoá-xã hội. Sự đóng góp về tài chính với một phần chi phí trong chuyến đi của du khách có thể giúp chi trả cho các dự án bảo tồn đa dạng sinh học.

- DLST gắn liền với giáo dục môi trường: Đặc điểm GDMT trong DLST là một yếu tố cơ bản thứ hai phân biệt nó với loại du lịch tự nhiên khác. Giải thích và GDMT là những công cụ quan trọng trong việc tăng thêm những kinh nghiệm du lịch thú vị và nâng cao kiến thức và sự trân trọng môi trường cho du khách, dẫn đến hành động tích cực đối với bảo tồn, góp phần tạo nên sự bền vững lâu dài của hoạt động DLST trong những khu tự nhiên.

- Mang lại lợi ích cho địa phương: DLST cải thiện đời sống, tăng thêm lợi ích cho cộng đồng địa phương và môi trường của khu vực. Cộng đồng địa phương chỉ có thể tham gia vào những công việc vận hành DLST, trên phương diện cung cấp về kiến thức, những kinh nghiệm thực tế, các dịch vụ, các trang thiết bị và các sản phẩm phục vụ khách. Những lợi ích này nhất thiết phải "nặng ký" hơn sự trả giá về môi trường và văn hoá-xã hội nảy sinh từ du lịch mà cộng đồng địa phương phải gánh chịu.

- Thoả mãn nhu cầu về kinh nghiệm du lịch cho du khách: Việc thoả mãn những mong muốn của khách tham quan với những kinh nghiệm du lịch lý thú là cần thiết đối với sự tồn tại sống còn lâu dài của ngành DLST, trong đó có một phần quan trọng là sự an toàn cho du khách và phải thoả mãn hoặc vượt quá sự mong đợi của du khách.


1.4 Những yêu cầu cơ bản đối với du lịch sinh thái

Theo Drumm (2002), được trích trong Cẩm nang quản lý và phát triển DLST cục kiểm lâm năm 2004, thì những yếu tố dưới đây có vai trò quyết định đối với việc tổ chức thành công hoạt động DLST [5]:

- Ít gây ảnh hưởng tới tài nguyên thiên nhiên của KBTTN và VQG.


- Thu hút sự tham gia của các cá nhân, cộng đồng, khách DLST, các nhà điều hành tour và các cơ quan tổ chức phi chính phủ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

- Tôn trọng văn hóa truyền thống địa phương.


Nghiên cứu đề xuất phát triển du lịch sinh thái nhằm hỗ trợ cho công tác bảo tồn Đa dạng sinh học Vườn Quốc gia Vũ Quang, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh - 3

- Tạo thu nhập lâu dài và bình đẳng cho cộng đồng địa phương và cho các bên tham gia khác, bao gồm cả những nhà điều hành tour tư nhân.

- Tạo nguồn tài chính cho công tác bảo tồn của KBTTN.


- Giáo dục những người tham gia về vai trò của họ trong công tác bảo tồn.


1.5. Phát triển du lịch sinh thái ở các Vườn Quốc gia Khái niệm Vườn Quốc gia

Vườn quốc gia là một khái niệm đã rất phổ biến trong hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, hiện nay đang có nhiều khái niện khác nhau: Tổ chức IUCN đã đưa ra một định nghĩa về VQG như là một lãnh thổ tương đối rộng trên đất liền hay trên biển mà [25]:

- Ở đó có một hay nhiều hệ sinh thái không bị thay đổi lớn do sự khai khác hay chiến lĩnh của con người. Các loài thực vật, động vật, các đặc điểm sinh thái, địa mạo và nơi cư trú của các loài, hoặc các cảnh quan thiên nhiên đẹp trong đó là mối quan tâm cho nghiên cứu khoa học, giáo dục và giải trí.

- Ở đó ban quản lý thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc loại bỏ càng nhanh càng tốt sự khai thác hoặc chiếm lĩnh và tăng cường sự tôn trọng những đặc trưng về sinh thái, hình thái học và cảnh quan.

- Ở đó cho phép các hoạt động khách du lịch đến thăm, dưới những điều kiện đặc biệt, cho các mục đích nghiên cứu, giáo dục, giải trí và lòng ngưỡng mộ.

Ở Việt Nam vườn quốc gia được hiểu theo khoản 1 điều 13 quy chế quản lý rừng ban hành theo quyết định 186/2006 của thủ tướng chính phủ [7].

Vườn quốc gia là khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc ở vùng đất ngập nước, hải đảo, có diện tích đủ lớn được xác lập để bảo tồn một hay nhiều hệ sinh thái đặc trưng hoặc đại diện không bị tác động hay chỉ bị tác động rất ít từ bên ngoài; bảo tồn các loài sinh vật đặc hữu hoặc đang nguy cấp.

Vườn quốc gia được quản lý, sử dụng chủ yếu phục vụ cho việc bảo tồn rừng và hệ sinh thái rừng, nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và du lịch sinh thái.

Các vườn quốc gia chính là những đối tượng lý tưởng cho các hoạt động du lịch sinh thái phát triển, đồng thời DLST cũng là một trong những cách thức phát triển nhằm bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển kinh tế cho cộng đồng địa phương.‌

1.6. Thực trạng phát triển Du lịch sinh thái


1.6.1 Thực trạng phát triển du lịch sinh thái thế giới

Du lịch sinh thái đang dấy lên trong giới lữ hành và bảo tồn ngày một tăng, nguồn gốc của nó giống như sự tiến hóa hơn là một cuộc cách mạng. Những du khách lũ lượt kéo đến Vườn quốc gia Yellowstone và Yasemite cách đây hàng mấy thế kỷ chính là những khách du lịch sinh thái đấu tiên. Đến thế kỷ 20 đã chứng kiến sự thay đổi đầy kịch tính và liên tục của lữ hành thiên nhiên; với những trò chơi gây được sự quan tâm như: săn thú, câu cá... cho đến thời đoạn ngày nay, khách du lịch sinh thái thực sự đã có những hiểu biết hơn và phát triển ở mức cao hơn [17]. Hiện nay, nhiều quốc gia phát triển du lịch sinh thái trở thành một nghành công nghiệp chính đem lại nguồn thu quan trọng cho đất nước điển hình như: Nam Phi, Tanzania,...ở châu Phi và một số quốc gia khác như Nê Pan, Úc, Thái Lan, ...

Kinh nghiệm hoạt động DLST ở các Vườn Quốc gia.

* DLST ở VQG Galapagos [17].


Vườn Quốc gia Galapagos ở Equado không chỉ là một VQG mà còn là một di sản thế giới, một khu dự trữ sinh quyển, và giời đây còn là một khu dự trữ sinh thái biển. Về mặt vị trí thì VQG Galapagos nằm tách khỏi lục địa, có môi trường phù hợp cho các loài sinh vật thích nghi như Rùa, Kỳ đà, Chim sẻ, Xương rồng khổng lồ và họ hàng hướng dương, Chim cốc không bay, Chim bói cá và rất nhiều giống động thực, vật khác... Những loài này mang những thông tin không gì sánh được trên thế giới về quá khứ và tương lai.

Galapagos có lẽ là một trong những nơi thuận lợi nhất trên thế giới để nghiên cứu về tiến hóa của hệ sinh thái; được thưởng thức những quang cảnh đại dương, ven biển và đất liền; nơi động vật hoang dã đã tiến hóa và như không có chút sợ hãi nào đối với con người đây chính là một cảm giác thật khó so sánh.

Khác với các VQG khác ở Equado và các nước Châu Mỹ la tinh khác, nơi có thể có người sống hợp pháp hoặc không hợp pháp trong phạm vi được bảo vệ, người dân ở Galapagos không được phép sống trong VQG. Họ tập trung ở khoảng 4% diện tích của quần đảo trên đất thuộc sở hữu tư nhân. Hầu hết khách tham quan từ đất liền đi bằng máy bay đến các đảo, sau đó đi thăm thú bằng các tua du lịch được thiết kế sẵn.

Sau mười năm đầu kể từ khi đón khách, chiến lược quản lý và hỗ trợ quản lý đầu tiên của VQG được thực hiện tương đối suôn sẻ với một số lượng nhỏ du khách và phát triển liên tục trong nhưng năm 1970. Từ ban đầu có 7000 khách tham quan đến năm 1973 là 12000 khách, năm 1981 là 25000 khách và năm 1989 đã thu hút gần 42000 khách. Sau đó, sự sa sút của nền kinh tế khu vực đã dẫn đến việc giảm ngân sách của dịch vụ DLST ở VQG Galapagos. Nhưng với những biện pháp hữu hiệu cộng với sự hỗ trợ nỗ lực của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ môi trường toàn cầu.. đã làm vực dậy sự phát triển DLST ở đây.

Chuyến du lịch truyền thống ở đây là một chuyến đi chơi biển bằng tàu thủy kéo dài một tuần đến các điểm du lịch khác nhau. Những năm gần đây, Galapagos phải tiếp ngày càng tăng lượng khách tới thăm, Các nhà điều hành đã rất linh hoạt ngoài tour du lịch truyền thồng thì họ đã tổ chức các tour ngắn ngày hơn, thậm chí là 1 ngày, để nhằm phù hợp hơn với các đối tượng khách khác nhau. Nhìn chung các hoạt động ở đây đã đem lại lợi nhuận cao cho VQG Galapagos và cộng đồng người dân ở đây. Hiện có 6 du thuyền, bốn tàu thủy (chở được từ 34 người đến 90 người), 75 thuyền máy lớn và 10 thuyên buồn... những năm gần đây nhu cầu cấp phép hoạt động thuyền du lịch ở đây là rất lớn, đã có nhiều bất cập xảy ra trong hoạt động này song Ban quản lý VQG và chính phủ Equador đã có những điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế phù hợp số lượng thuyền hoạt động. Với nguồn thu 40 $ lệ phí vào VQG và nguồn phí từ các hoạt động của các nhà điều hành du lịch được dùng để phục vụ cho các hoạt động của Vườn và hỗ trợ các hoạt động bảo tồn ở các khu bảo tồn khác ở Equador, đây là những đóng góp đáng kể mà không phải các VQG khác trên thế giới làm được. Hiện nay thì Galapagos đang được coi là mỏ vàng của Equador .

Một số kinh nghiệm của việc phát triển DLST ở VQG Galapagos:


- Các hoạt động dịch vụ VQG đã được tổ chức tập huấn cẩn thận và được cấp chứng nhận cho các hướng dẫn viên. Các hướng dẫn viên này sẽ đi cùng với tất cả các đoàn tham quan, vừa đóng vai trò hướng dẫn vừa kiểm soát các hoạt động không tốt cho môi trường của khách du lịch.

- Phương tiện tham quan đa là phần bằng thuyền, các dịch vụ ăn nghỉ đều ở trên thuyền phần nào đã giảm tác động vào các khu vực tham quan của khách. Khu tham quan thường ngắn và có ranh giới rò ràng. Các hành trình của chuyền tham quan điều được cố định và không được vào các khu vực chưa bị xâm nhập của các loài nhập nội.

- Các phương tiện hoạt động dịch vụ ở VQG điều kiểm soát và cấp phép khá chặt chẽ.

- Các hoạt động của VQG đều được phân vùng quản lý và có chiền lược quản lý các hoạt động DLST.

* DLST ở Khu BTTN Annapurna [2].


Khu BTTN Annapurna, Nê Pan được bao bọc bởi các ngọn núi thuộc loại cao nhất thế giới. Là một khu vực có các điều kiện tự nhiên rất khác biệt. Do các điều kiện khí hậu khác nhau, từ cận nhiệt đới tới ôn đới, sa mạc và khô khu vực này được thiên nhiên ban tặng cho những điều kiện tuyệt vời cho các loài động, thực vật quý hiếm phát triển như: Báo tuyết, Cừu xanh, hơn 100 chủng lọai phong lan và có một trong các khu rừng Đỗ quyên lớn nhất thế giới. Phần lớn dân cư sống ở đây là tá điền, sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn trong khu vực và phát triển các hệ thống quản lý truyền thống của riêng họ.

Trong vòng hai thập kỷ qua, các hoạt động du lịch được triển khai ở vùng này và phát triển một cách chóng mặt đã làm nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đây bị khai thác tới mức giới hạn và KBTTN đã rơi vào bở vực của sự khủng hoảng.

Hằng năm có hơn 36 000 khách ưu mạo hiểm đã tới Annapurna, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của phong cảnh và thưởng thức sự độc đáo của các bản sắc văn hóa bản địa, đã tạo nguồn thu nhập lớn cho nhiều người ở cộng đồng địa phương, nhưng nó cũng đã tạo nên một số vấn đề về môi trường nghiêm trọng. Rừng bị chặt hạ để làm nhiên liệu nấu ăn, sưởi ấm và làm nhà nghỉ, sự ô nhiễm nguồn nước, hệ thống xử lý rác yếu đã làm rác lan tràn trên các tuyến đường và các khu có hoạt động du lịch, cộng thêm sự gia tăng dân số nhanh.

Hoạt động du lịch sinh thái là một trong những nguồn thu nhập ngoại tệ chính của Nê Pan, nhưng lại không đếm xỉa đến những người dân địa phương. Chính vì thế những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch lại càng trở nên trầm

trọng. Trước những nhu cầu đó mà năm 1986 đã xuất hiện dự án xây dựng khu bảo tồn Annapurna. Dự án đề cập đồng thời 3 khía cạnh chính là: bảo tồn thiên nhiên, phát triển nhân lực và quản lý du lịch.

Mục tiêu của dự án là bải vệ môi trường tự nhiên và văn hóa vùng Annapurna vì lợ ích của 40.000 dân cư trong vùng cũng như du khách quốc tế, song song với hoạt động nâng cao nhân thức của họ về sự mong manh của môi trường.

Các hoạt động đã chia ra làm 8 nhóm bao gồm: bảo tồn rừng, các nguồn năng lượng thay thế, giáo dục bảo tồn, quản lý du lịch, phát triển cộng đồng, sức khỏe và vệ sinh công đồng, các ủy ban quản lý cộng đồng, nghiên cứu.

Kết quả dự án sau 5 năm thực hiện, khắp nơi trên vùng Annapurna đã chứng kiến sự thay đổi theo chiều hướng tốt trong việc bảo vệ môi trường, văn hóa bản địa, mức sống của người dân được nâng lên, khách du lịch có được cảm giác tốt hơn khi các dịch vụ được nâng lên, mặt khác họ hiểu được rằng du lịch sinh thái không chỉ là những trải nghiệm mà còn giúp cho đời sống người dân ở đây, giúp ích cho hoạt động bảo tồn, bảo vệ môi trường.

Dự án Annapurna cho thấy được sự cần thiết phải giử các lợi ích kinh tế lại trong vùng, thu hút dân địa phương than gia vào các hoạt động du lịch, tăng cường liên kết các lợi ích bảo tồn với lợi ích phát triển càng nhiều càng nhiều càng tốt.

1.6.2. Các bài học kinh nghiệm được rút ra từ những mô hình DLST ở các VQG trên thế giới

Qua việc tìm hiểu hoạt động DLST ở các VQG trên thế giới, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm khi tiến hành hoạt động DLST ở VQG của Việt Nam nói chung và VQG Vũ Quang nói riêng như sau:

+ Cần thay đổi quan niệm của mọi người về bảo tồn và phát triển. Giáo dục tuyên truyền để nâng cao nhận thức của các đối tượng trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng tài nguyên đến các tầng lớp khác nhau.

+ Cần có cơ chế quản lý phù hợp, trong đó có sự tham gia của người dân địa phương theo phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" để có thể quản lý tài nguyên và hoạt động du lịch hiệu quả. Đảm bảo tính thống nhất giữa các cơ quan quản lý. Quản lý chặt chẽ việc cấp phép xây dựng và hoạt động của các cơ sở dịch vụ DLST, tránh tình trạng xây dựng ồ ạt, lấn chiếm đất, phá vỡ cảnh quan tự nhiên và làm mất cân đối cung cầu trong vùng dự án.

+ Cần có chính sách phù hợp nhằm phân phối rộng rãi hơn thu nhập từ du lịch. Thu nhập du lịch phải được sử dụng để duy trì hoạt động du lịch và phát triển cộng đồng địa phương, tránh tình trạng thu nhập chỉ tập trung vào một nhóm nhỏ, còn đa số người dân địa phương không được hưởng lợi gì từ việc phát triển DLST.

+ Cần có phương án sử dụng các nguồn năng lượng sạch thay thế như: điện mặt trời, điện sản xuất bằng nguyên liệu khí bio-gas, sử dụng khí bio-gas sản xuất từ chất thải chăn nuôi để đun nấu thay thế cho nhiên liệu gỗ, củi giúp bảo vệ môi trường.

+ Tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong các trường học, trong cộng đồng địa phương và khách du lịch. Xây dựng mối quan hệ tương hỗ giữa khách du lịch và cộng đồng địa phương và cơ quan quản lý các đơn vị rừng đặc dụng nhằm bảo vệ tài nguyên và phát triển du lịch bền vững.

+ Khôi phục và phát triển các nghề truyền thống của địa phương phục vụ nhu cầu của khách du lịch như: sản xuất đồ lưu niệm, chăn nuôi, trồng trọt... Tạo ra và duy trì thu nhập cho người dân địa phương.


1.6.3. Thực trạng DLST ở các VQG của Việt Nam


Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù là một đất nước được đánh giá có tiềm năng lớn về du lịch sinh thái song sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Đặc biệt là ở các VQG và KBTTN - là nơi được coi là có môi trường phù hợp cho phát triển DLST [20, 29].

Các hoạt động DLST thường bao gồm: nghiên cứu, tìm hiểu các hệ sinh thái; tham quan, tìm hiểu đời sống động thực vật hoang dã, và văn hóa bản địa. Tuy

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 15/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí