du lịch đang là một nguồn thu rất lớn đối với Myanmar, góp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở quốc gia này.
Bảng 2.5: Thu nhập từ du lịch của Myanmar giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: USD
2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | |
Tổng thu nhập | 319 triệu | 534 triệu | 926 triệu | 1789 triệu | 2122 triệu |
Chi tiêu trung bình 1 ngày 1 người | 120 | 135 | 145 | 170 | 171 |
Thời gian lưu trú trung bình | 8 ngày | 7 ngày | 7 ngày | 9 ngày | 9 ngày |
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Ảnh Hưởng Của Một Số Ngành Nghề Đến Việc Làm Trên Toàn Thế Giới Năm 2014
- Chính Trị, Quản Lý Nhà Nước Và Các Chính Sách Về Du Lịch Quốc Tế:
- Bảng Số Liệu Nền Kinh Tế Myanmar Giai Đoạn 2012 – 2015
- Dự Báo Số Việc Làm Trực Tiếp Trong Ngành Du Lịch Tại Myanmar Giai Đoạn 2012 – 2020
- Một Số Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Quốc Tế Cho Việt Nam
- Định Hướng Phát Triển Du Lịch Quốc Tế Của Việt Nam:
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Nguồn: Thống kê du lịch Myanmar năm 2015 bởi Bộ Du Lịch và Khách Sạn Myanmar
Cũng từ bảng trên đây, tổng thu nhập từ du lịch tăng liên tục trong giai đoạn 5 năm. Tính đến năm 2015, con số này đã tăng lên gần 7 lần đạt 2,122 triệu USD. Ngoài những chuyến tham quan theo hình thức truyền thống, những chuyến tham quan theo hình thức đặc biệt đã góp phần không nhỏ vào tổng thu nhập từ du lịch của Myanmar như là tham quan bằng du thuyền, bằng thuyền trên sông và bằng khinh khí cầu. Ba loại hình dịch vụ trên hiện tại đang rất phổ biến tại Myanmar, đặc biệt là dịch vụ khinh khí cầu ở Bagan. Nhờ có sông Ayeyrawady, các hoạt động tham quan trên sông bằng du thuyền đã ngày càng phát triển, các hình thức du lịch được đa dạng hóa mang đến cho khách du lịch những trải nghiệm tốt đẹp. Những chuyến tham quan như thế này thường có chi phí cũng tương đối cao, khách du lịch khi chọn những hình thức đặc biệt này cũng là những khách có điều kiện, do đó đây có thể coi là nguồn thu to lớn cho ngành du lịch Myanmar. Theo Phụ lục 2, 3 và 4, lượng khách du lịch bằng thuyền trên sông và bằng khinh khí cầu đã đạt hơn 20 nghìn lượt mỗi dịch vụ trong năm 2015. Đây đều là những tiềm năng để có thể thu hút nhiều khách du lịch hơn và tăng doanh thu từ du lịch quốc tế trong tương lai gần.
2.2.1.3. Sự đóng góp của du lịch vào tỷ trọng GDP:
Lượng khách quốc tế tăng khiến cho doanh thu cũng như thu nhập từ du lịch tăng, đóng góp một phần không nhỏ của du lịch vào GDP của Myanmar.
Đơn vị: %
Hình 2.1: Đóng góp trực tiếp của du lịch và lữ hành vào GDP của Myanmar qua các năm
Nguồn: Hội đồng Du Lịch và Lữ Hành Thế Giới (WTTC)
Đóng góp trực tiếp của du lịch và lữ hành vào GDP của Myanmar năm 2016 là 2.577,6 tỷ Kyat (Đơn vị tiền tệ của Myanmar), tương đương với 3% đóng góp vào GDP. Con số này được dự đoán sẽ tăng 3,5% lên 2.668,2 tỉ Kyat trong năm 2017.
Đơn vị: % (Direct: Trực tiếp; Indirect: Gián tiếp; Induced: Phát sinh)
Hình 2.2: Đóng góp toàn bộ của du lịch và lữ hành vào GDP của Myanmar qua các năm
Nguồn: Hội đồng Du Lịch và Lữ Hành Thế Giới (WTTC)
Đóng góp toàn phần của du lịch và lữ hành vào GDP của Myanmar là 5.606,7 tỉ Kyat vào năm 2016, chiếm 6,6% GDP và được dự đoán sẽ tăng 3,8% tới 5.820,9 tỉ Kyat vào năm 2017. Như vậy có thể thấy đóng góp của du lịch vào tỷ trọng GDP của cả nước ngày càng tăng lên theo từng năm. Điều này sẽ giúp nền kinh tế Myanmar dịch chuyển cơ cấu từ nông nghiệp, công nghiệp sang dịch vụ và Myanmar có cơ sở để kì vọng vào một ngành kinh tế tiềm năng này.
2.2.1.4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển du lịch quốc tế:
Trong những năm vừa qua, các thương hiệu khách sạn nước ngoài đã đầu tư vào Myanmar khá nhiều như Melia, Novotel, Shangri-La, Orient-Express, Hilton, bên cạnh đó, hãng Starwood sẽ khai trương khách sạn Sheraton đầu tiên ở Yangon vào năm 2017 trong khi khách sạn Marriott vẫn còn đang trong quá trình thảo luận với các đối tác tiềm năng ở Myanmar. Ngoài ra hãng Sedona của Singapore cũng đã đầu tư khách sạn ở cả Yangon và Mandalay. Đối với các khu nghỉ dưỡng, tiềm năng nhất để phát triển là ở quần đảo Mergui, nơi có khoảng 800 hòn đảo đẹp mà chưa được khai phá nhiều. Như vậy có thể thấy ngành khách sạn của Myanmar đang rất tiềm năng và thu hút rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài đến đây.
Bảng 2.6: Đầu tư nước ngoài vào khách sạn và thương mại Myanmar năm 2015
Đơn vị: triệu USD
Số dự án | Số phòng | Đầu tư (triệu USD) | Ghi chú | |
1 | 34 | 6,346 | 1,775 | Đã hoàn thiện |
2 | 11 | 2,296 | 773 | Đang xây dựng |
3 | 3 | 490 | 131 | Đang cấp phép |
48 | 9,132 | 2,679 |
Nguồn: Thống kê du lịch Myanmar năm 2015 bởi Bộ Du lịch và Khách Sạn Myanmar
Như vậy ta có thể thấy tổng số phòng nhận được vốn đầu tư nước ngoài là 9,132 phòng, mới chỉ bằng 1/5 tổng số phòng khách sạn ở Myanmar vào năm 2015. Tỉ lệ này vẫn còn khá thấp và đó cũng là một phần nguyên nhân khiến cho các khách sạn đạt tiêu chuẩn cao cấp quốc tế vẫn còn khá hạn chế ở Myanmar. Nhiều khách sạn do chủ đầu tư địa phương vẫn còn được thiết kế và nhìn nhận theo con mắt chủ quan, do đó chưa đáp ứng đúng nhu cầu của khách du lịch quốc tế.
Bảng 2.7: Đầu tư nước ngoài và khách sạn và thương mại Myanmar năm 2015 theo nước
Đơn vị: triệu USD
Nước | Khách sạn/ Căn hộ | Đầu tư (triệu USD) | |
1. | Singapo | 21 | 1514,244 |
2. | Thái Lan | 10 | 343,130 |
3. | Nhật Bản | 3 | 62,000 |
4. | Hồng Kông | 4 | 171,670 |
5. | Malaysia | 3 | 23,136 |
6. | 1 | 440,000 | |
7. | Anh | 3 | 14,500 |
8. | Ả Rập Xê-út | 1 | 4,500 |
9. | Hàn Quốc | 1 | 100,000 |
10 | Lúc-xem-bua | 1 | 5,200 |
Tổng số | 48 | 2.678,380 |
Nguồn: Thống kê du lịch Myanmar năm 2015 bởi Bộ Du lịch và Khách Sạn Myanmar
Tương ứng với số lượng khách Thái Lan đến Myanmar đông nhất như đã phân tích ở trên, các nhà đầu tư Thái Lan đã rót vốn xây dựng 10 khách sạn ở Myanmar, đứng thứ 2 chỉ sau Singapo. Tiếp theo đó là nước Hồng Kông với tổng giá trị đầu tư là 62 triệu USD. Theo báo cáo về du lịch của MOHT các năm từ 2011 đến 2014, số lượng các quốc gia đầu tư vào Myanmar đều tăng lên, cho đến năm 2015 thì đã có thêm Việt Nam, Ả-rập-Xê-út và Lúc-xem-bua. ADB cũng đưa ra nhận định Myanmar là một vùng đất tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài và dự báo trong những năm tới, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng vọt, đặc biệt là vào mảng cơ sở lưu trú.
2.2.1.5. Cơ sở lưu trú:
Theo số liệu từ MOHT, năm 2015, có 1.186 khách sạn và nhà nghỉ, cung cấp tổng cộng 46.690 phòng. Trong số tất cả các thành phố, Yangon tiếp tục cung cấp số phòng khách sạn lớn nhất với 30% tổng số phòng khách sạn của đất nước. Tiếp theo là Mandalay ở mức 13% và Nay Pyi Taw ở mức 11%. Trong số các thành phố hàng đầu có số lượng lớn khách sạn, thị trường khách sạn ở Yangon chủ yếu do nhu cầu thương mại, Mandalay theo nhu cầu giải trí và Nay Pyi Taw chỉ do nhu cầu của chính phủ.
Bảng 2.8: Số lượng khách sạn và nhà nghỉ theo vùng ở Myanmar năm 2015
Số khách sạn | Số phòng | |
Yangon | 306 | 14.251 |
Mandalay | 241 | 8.468 |
Shan | 210 | 6.116 |
Naypyitaw | 60 | 4.994 |
Bagan | 105 | 3.146 |
Các thành phố khác | 264 | 9.715 |
Tổng số | 1.186 | 46.690 |
Nguồn: Bộ Du Lịch và Khách Sạn Myanmar
Theo trang báo điện tử HVS - một tổ chức về dịch vụ và tư vấn toàn cầu về lĩnh vực khách sạn, nhà hàng và công nghiệp giải trí, từ năm 2014 đến năm 2015, tổng số phòng khách sạn tăng 15,5%, thêm hơn 6.700 phòng trên cả nước. Cụ thể, khu vực hồ Inle (Taunggyi & Nyaung Shwe) có mức tăng trưởng hàng năm tăng 23,2% so với cùng kỳ năm ngoái do nhu cầu giải trí gia tăng trong khi tỷ lệ tăng trưởng khách sạn ở Yangon và Mandalay chậm lại một chút ở mức 17%.
Như vậy, mặc dù số lượng khách sạn còn chưa đồng đều ở các khu vực của Myanmar nhưng số lượng vẫn tăng qua các năm. Để thúc đẩy việc phát triển các cơ sở lưu trú hơn nữa, chính phủ Myanmar cần có các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và các chính sách khuyến khích, ưu tiên phát triển ở các vùng ngoài 3 điểm kể trên nhằm mở rộng phạm vi du lịch cũng như giúp đỡ người dân các vùng khác cùng phát triển du lịch.
2.2.1.6. Các dịch vụ du lịch:
Các dịch vụ du lịch ở Myanmar đã được cải thiện và đa dạng hóa hơn rất nhiều thời kì trước mở cửa. Trong những năm gần đây, số lượng các công ty du lịch tại Myanmar tăng mạnh, trong đó không chỉ có các công ty trong nước, mà còn có các công ty liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài.
Bảng 2.9: Số lượng các công ty du lịch ở Myanmar giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: Số công ty
2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | |
Công ty nước ngoài | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 |
Công ty liên doanh | 15 | 17 | 25 | 33 | 39 |
Công ty trong nước | 743 | 1008 | 1324 | 1589 | 1906 |
Tổng số | 759 | 1026 | 1350 | 1623 | 1946 |
Nguồn: Bộ Du Lịch và Khách sạn Myanmar.
Qua bảng trên, ta có thể thấy mặc dù số lượng công ty nước ngoài ở Myanmar vẫn chỉ có một nhưng công ty liên doanh và công ty trong nước thì tăng vọt, chỉ trong vòng năm năm, số lượng công ty đã tăng lên gần ba lần. Điều này chứng tỏ khách du lịch đến Myanmar đã có nhiều sự lựa chọn hơn về dịch vụ tư vấn thông tin và về giá cả của các gói tham quan. Số lượng công ty 100% vốn nước ngoài ở Myanmar vẫn còn khá hạn chế là do đất nước này mới mở cửa, chính trị và kinh tế dù đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa ổn định nên các nhà đầu tư còn nhiều e ngại, họ lựa chọn một phương án an toàn hơn đó là thành lập các công ty liên doanh với người dân địa phương để giảm thiểu các rủi ro khi đầu tư vào quốc gia này.
Ngoài ra, để giúp khách du lịch có những hiểu biết cũng như trải nghiệm tốt đẹp ở Myanmar, hướng dẫn viên du lịch là một yếu tố quan trọng bởi họ chính là những người trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Số lượng khách du lịch quốc tế tăng lên đã khiến nhu cầu về hướng dẫn viên du lịch cũng tăng lên trong giai đoạn 2011 – 2015.
Bảng 2.10: Số lượng hướng dẫn viên du lịch được cấp phép giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: Số hướng dẫn viên
2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | |
Tiếng Anh | 1931 | 2058 | 2187 | 2296 | 2349 |
Tiếng Tây Ban Nha | 106 | 110 | 111 | 110 | 106 |
Tiếng Nhật | 343 | 350 | 403 | 384 | 352 |
Tiếng Pháp | 231 | 246 | 277 | 282 | 278 |
Tiếng Trung | 125 | 139 | 132 | 131 | 123 |
106 | 108 | 132 | 138 | 150 | |
Tiếng Đức | 219 | 230 | 264 | 268 | 261 |
Tiếng Nga | 35 | 40 | 68 | 69 | 66 |
Tiếng Ý | 43 | 48 | 64 | 68 | 64 |
Tiếng Hàn | 21 | 24 | 29 | 30 | 26 |
Hướng dẫn địa phương | 1070 | 1855 | |||
Tổng số | 3160 | 3353 | 3667 | 4846 | 5630 |
Nguồn: Thống kê du lịch Myanmar từ năm 2011 đến năm 2015 bởi Bộ Du Lịch và Khách Sạn Myanmar.
Từ bảng trên, ta có thể thấy số lượng hướng dẫn viên không những tăng liên tục mà còn khá đa dạng. Trong đó hướng dẫn viên tiếng Anh là chiếm nhiều nhất và cũng tăng nhiều nhất trong vòng năm năm. Bên cạnh đó, từ năm 2014, chúng ta thấy trên bảng xuất hiện thêm hướng dẫn viên địa phương, họ là những người am hiểu về địa phương nên sẽ giúp các hướng dẫn viên từ các vùng khác đến tham quan về việc chỉ dẫn, cung cấp các thông tin cho khách du lịch, từ đó, khách du lịch sẽ có những tìm hiểu sâu hơn và trải nghiệm tốt hơn. Năm 2015, số lượng hướng dẫn viên địa phương đã tăng gần 800 người, đạt số lượng gần bằng với hướng dẫn viên tiếng Anh.
Các dịch vụ vận chuyển khách du lịch ở Myanmar đã ngày càng đa dạng và phát triển. Hơn thế, các phương tiện truyền thống và đặc sắc cũng được đưa vào sử dụng nhằm cung cấp cho khách du lịch những trải nghiệm khác biệt. Dưới đây là bảng số liệu một số phương tiện trong vận chuyển khách du lịch từ năm 2011 đến năm 2015.
Bảng 2.11: Số lượng các phương tiện được cấp phép chuyên chở khách du lịch tại Myanmar giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: Số xe/ thuyền/ khinh khí cầu
2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | |
Xe ô tô 26 – 50 chỗ | 63 | 61 | 62 | 129 | 208 |
Xe ô tô 13 – 25 chỗ | 27 | 27 | 24 | 30 | 60 |
Xe ô tô 5 – 12 chỗ | 13 | 16 | 17 | 31 | 69 |
Xe ô tô 4 chỗ | 19 | 23 | 17 | 18 | 39 |
Thuyền có động cơ | 12 | 22 | 46 | 55 | 56 |
Thuyền truyền thống | 17 | 17 | 19 | 24 | 30 |
Du thuyền | 26 | 31 | 15 | 21 | 21 |
Khinh khí cầu | 1 | 1 | 1 | 2 | 3 |
Tổng số | 178 | 198 | 201 | 310 | 486 |
Nguồn: Thống kê du lịch Myanmar từ năm 2011 đến năm 2015 bởi Bộ Du lịch và Khách Sạn Myanmar.
Trong vòng năm năm, số lượng của tất cả các loại xe đều có sự gia tăng, trong đó số lượng xe ô tô từ 26 đến 50 chỗ là tăng đột biến nhất, gấp gần bốn lần. Điều này cho thấy Myanmar đang ngày càng có nhiều khách đoàn đến thăm quan du lịch, không chỉ đơn thuần là khách lẻ.
Theo Báo cáo về thị trường hàng không Myanmar của Phòng thương mại Anh, Myanmar được đánh giá là một trong những thị trường tăng trưởng nhanh nhất trong các nước Đông Nam Á vào năm 2016. Số lượng khách quốc tế tăng 17% và gấp đôi năm 2012. Theo đó, thị trường hàng không Myanmar cũng tăng trưởng nhanh chóng trong giai đoạn 2012 – 2014 ngay sau cuộc cải tổ chính trị của chính phủ mới nhưng lại chững lại trong khoảng năm 2015. Tuy nhiên ngay sau đó, sự tăng vọt trở lại năm 2016 đã đánh dấu một bước phát triển không nhỏ của ngành hàng không Myanmar.
Tính đến hiện tại, Myanmar có tổng cộng 69 sân bay, trong đó có 3 sân bay quốc tế, 30 sân bay nội địa và 36 sân bay đang hoàn thiện. Cả 3 sân bay quốc tế thời gian vừa qua đã được nâng cấp mặc dù 66 sân bay còn lại vẫn đang trong tình trạng không đạt chuẩn.