- Đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước phải có trình độ cao về chuyên ngành, chủ động, sáng tạo, chí công, vô tư đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cơ bản phải đạt được.
Bởi đây là lĩnh vực có tính đặc thù và sự khác biệt so với các ngành khác. Do đó đội ngũ này phải nắm vững nhiệm vụ chuyên ngành, liên ngành, nhưng phải có sự sáng tạo và luôn chủ động trước mọi tình huống xảy ra có tính đột xuất. Đồng thời có phẩm chất đạo đức, chí công vô tư, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, quản lý chặt chẽ không bị mất mát nguồn dự trữ nhà nước.
- Thực hiện chính sách đối với đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước.
Chính sách là một biện pháp nhằm thúc đẩy mọi người hoạt động có hiệu quả. Nó tạo động lực cho đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước yên tâm làm việc. Chính sách gồm chính sách tiền lương, chính sách thu nhập, chính sách tuyển dụng, chính sách đề bạt, chính sách bố trí công tác hợp lý. Đây là những chính sách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước hoàn thành nhiệm vụ được giao.
4.4. Hệ thống giải pháp phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
4.4.1. Nhóm giải pháp tổng thể
4.1.1.1. Tiến hành rà soát, đánh giá tổng thể đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước làm cơ sở cho công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng công chức hợp lý, khoa học.
Cần có một đánh giá toàn diện về đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước; qua đó để các cấp từ Tổng cục đến Chi cục, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống mạnh dạn bố trí, sắp xếp, sử dụng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước phù hợp với năng lực, sở trường của từng người; kiên quyết bố trí, sắp xếp lại những công chức không đủ năng lực; chủ động bố trí, sắp xếp công chức có triển vọng đảm nhiệm các công việc để có điều kiện học tập, thử thách, rèn luyện, phấn đấu và tự khẳng định, nhất là đối với diện quy hoạch công chức lãnh đạo và công chức thừa hành. Trên cơ sở rà soát này tiến hành công tác quy hoạch, đào tạo công chức hợp lý, khoa học. Điều này đòi hỏi ngành dự trữ nhà nước phải tiến hành công tác quy hoạch một cách cụ thể. Xác định trong thời gian tới cần
phát triển đội ngũ công chức này đến đâu, số lượng như thế nào và cơ cấu đảm bảo theo tiêu chuẩn mà nhà nước đã quy định đối với ngành dự trữ nhà nước, từ đó có kế hoạch đào tạo đội ngũ này theo đúng chức danh nhiệm vụ đòi hỏi. Nhằm khắc phục tình trạng hiện nay là do chưa có quy hoạch một cách hợp lý nên còn bị động, hụt hẫng, lúng túng… Mặt khác, thông qua đánh giá toàn thể đội ngũ này mới biết được đâu là mặt yếu kém cần có biện pháp khắc phục, đâu là tiềm năng thế mạnh cần phải phát huy.
4.1.1.2. Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phát triển đội ngũ công chức
Có thể bạn quan tâm!
- Dự Báo Phát Triển Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước Việt Nam
- Nhu Cầu Phát Triển Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước Việt Nam
- Yêu Cầu Đối Với Phát Triển Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước Việt Nam Đến Năm 2030
- Phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam - 23
- Nhóm Giải Pháp Về Tuyển Dụng, Sử Dụng Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước
- Hoàn Thiện Chính Sách Sử Dụng Người Tài, Đi Đôi Với Chính Sách Đãi Ngộ.
Xem toàn bộ 243 trang tài liệu này.
Hệ thống cơ chế, chính sách nhằm phát triển đội ngũ công chức đóng vai trò hết sức quan trọng, có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến phát tiển đội ngũ công chức, và là động lực thúc đẩy hoặc cũng có thể là lực cản kìm hãm sự phát triển của các bộ, ngành nói riêng hay phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành khá nhiều cơ chế, chính sách có tác động tích cực đến phát triển đội ngũ công chức nói chung và phát triển đội ngũ công chức các bộ, ngành nói riêng trong đó có ngành dự trữ nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, các cơ chế, chính sách này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập và hiệu quả mang lại chưa cao, thậm chí có chính sách đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa. Do vậy, rất cần phải có sự sửa đổi, bổ sung, thậm chí cần phải có các cơ chế, chính sách mang tính đột phá để thúc đẩy và tạo đà cho việc phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước.
Việc bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước phải đảm bảo triển khai thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện theo tùng nội dung, từ cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, đến các cơ chế, chính sách về sử dụng đội ngũ công chức, các cơ chế, chính sách về tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển và thu hút, đãi ngộ đội ngũ công chức....sẽ làm cho đội ngũ công chức của ngành phát triễn toàn diện hơn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
4.1.1.3. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác phát triển đội ngũ công chức của ngành dự trữ nhà nước, công tác cán bộ luôn là một trong những công tác quan trọng, trọng tâm nhất của các cấp ủy Đảng.
Yêu cầu có ý nghĩa sống còn là các cấp ủy Đảng trong toàn hệ thống ngành dự trữ nhà nước phải có chiến lược, kế hoạch toàn diện về công tác cán bộ nói chung để có thể lựa chọn, bố trí những cán bộ, đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực công tác, kinh nghiệm công tác tốt để đáp ứng yêu cầu công tác và đảm nhận các vị trí công tác. Yêu cầu đó càng được đặt ra cấp bách trong thời điểm hiện nay khi việc quy hoạch, kiểm tra, giám sát cán bộ của cấp ủy Đảng một số đơn vị trong toàn ngành còn nhiều hạn chế. Tình trạng tuyển dụng, bố trí, sử dụng công chức ở một số đơn vị còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu .
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ đòi hỏi các cấp ủy đảng từ Ban cán sự Đảng Tổng cục Dự trữ Nhà nước đến các đơn vị trong toàn ngành phải chủ động xây dựng chiến lược cán bộ cũng như chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện tốt công tác này. Các cấp ủy Đảng phải chỉ đạo các đơn vị, tổ chức tạo ra cơ chế phối kết hợp trong công tác cán bộ. Cần quy định, phân định rõ ràng về phân công, phân cấp trong quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng, quản lý cán bộ giữa các cấp ủy và cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ, công chức, cần chỉ đạo để xác định rõ quyền hạn, chế độ trách nhiệm và mối quan hệ giữa cơ quan Đảng, chuyên môn, các tổ chức trong hệ thống chính trị của ngành về quản lý cán bộ.
Đổi mới về công tác cán bộ, công chức phải tuân thủ theo một số nguyên tắc sau:
- Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và chiến lược phát triển dự trữ quốc gia đến năm 2020 mà xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; qua thực tiễn thực hiện nhiệm vụ mà rèn luyện, tuyển chọn và đào tạo cán bộ, công chức, nâng cao phẩm chất, kiến thức và năng lực công tác.
- Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, công chức.
- Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức với việc xây dựng tổ chức và cơ chế chính sách với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Thông qua hoạt động thực tiễn để giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Mọi phẩm giá và bằng cấp, danh hiệu, chức vụ và tài năng đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn. Phải dựa vào dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ yêu cầu các cấp ủy Đảng của các đơn vị trong toàn ngành phải đổi mới hơn nữa phương thức lãnh đạo, hướng tới tập trung làm tốt công tác xây dựng chiến lược, chỉ đạo và kiểm tra các đơn vị, tổ chức về công tác cán bộ, trách nhiệm các cấp ủy làm thay những nội dung công việc tổ chức cán bộ, công chức thuộc chức năng của các cơ quan Nhà nước. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ đòi hỏi các cấp ủy Đảng trong toàn ngành phải làm tốt hơn nữa các khâu quy hoạch, bồi dưỡng và giới thiệu cho tổ chức những đảng viên ưu tú trực tiếp lãnh đạo công tác chính quyền đồng thời đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên và công chức trong ngành, xử lý cương quyết và triệt để những cán bộ, đảng viên, công chức có hành vi trái với điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước.
Thời gian qua, các đơn vị trong ngành dự trữ nhà nước thực sự chưa có cơ chế phối họp hiệu quả nên làm hạn chế kết quả phát triển đội ngũ công chức của ngành. Giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách và thực hiện chức năng phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam cần phải hoàn thiện cơ chế để các cấp trực thuộc và các đơn vị trong ngành dự trữ nhà nước Việt Nam có sự chủ động thực hiện đảm bảo định hướng, mục tiêu chiến lược và chính sách phát triển đội ngũ công chức của ngành.
Cơ chế thực hiện phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước cần được hoàn thiện theo hướng:
- Phân cấp mạnh mẽ hơn nữa để đơn vị các cấp tự chịu trách nhiệm lập kế hoạch, quyết định về chi phí thực hiện trong công tác đào tạo đội ngũ công chức mà không chờ quyết định giao nhiệm vụ từng hoạt động của đơn vị cấp trên.
- Bổ sung các quy định và hướng dẫn thực hiện theo nguyên tắc giao bộ phận đầu mối nhưng tăng cường hợp tác giữa các đơn vị, bộ phận, tránh tình trạng co cụm, coi nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức chỉ là trách nhiệm của bộ phận tổ chức cán bộ và đào tạo như hiện nay.
- Quy định rõ trách nhiệm thực hiện đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức hiện có về chuyên môn kỹ thuật cho các bộ phận chuyên môn trong việc tổ chức phát triển đội ngũ công chức tại các đơn vị từ Tổng cục đến Chi cục.
Để triển khai hiệu quả nội dung trên, ở Tổng cục cần cụ thể hoá quy chế đào tạo phát triển đội ngũ công chức của ngành dự trữ nhà nước bằng cách quy định rõ trách nhiệm trong chỉ đạo theo chiều dọc giữa Tổng cục tới các Cục và Chi cục. Mặt khác, cần tăng cường sự kiểm tra, đánh giá thực hiện từ Tổng cục tới Chi cục.
- Xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ, khuyến khích thực hiện phát triển đội ngũ công chức của ngành ở các đơn vị trực thuộc Tổng cục Dự trữ Nhà nước.
Ban hành chính sách khuyến khích đẩy mạnh phát triển đội ngũ công chức ở các đơn vị trong ngành dự trữ nhà nước sẽ làm tăng nhanh số công chức qua đào tạo và bồi dưỡng nâng cao. Thực tế cho thấy, số công chức cần nâng cao năng lực chủ yếu làm việc ở các đơn vị tham mưu tổng hợp, văn phòng các Cục, Chi cục. Do vậy, chính sách trên cần được ngành dự trữ nhà nước ban hành sớm nhằm giải quyết hài hoà lợi ích của các đơn vị khi tổ chức cho đội ngũ công chức tham gia hoạt động bồi dưỡng nhưng vẫn đảm bảo kế hoạch công tác dự trữ nhà nước trên phạm vi toàn quốc được giao.
Các đơn vị cũng cần khuyến khích công chức ở các đơn vị này mong muốn được đào tạo và phát triển nghề nghiệp. Muốn vậy, chính sách phát triển đội ngũ công chức phải gắn liền với chế độ đãi ngộ và thăng tiến của họ tại đơn vị.
Bên cạnh đó, cần hình thành quỹ hỗ trợ đào tạo tập trung. Đây là một quỹ dự phòng tài chính nhằm hỗ trợ các đơn vị thực hiện phát triển đội ngũ công chức của
ngành dự trữ nhà nước Việt Nam khi gặp khó khăn không thể bố trí kinh phí cho kế hoạch đã được hoạch định. Đây là một giải pháp cần thiết hỗ trợ phát triển đội ngũ công chức trong điều kiện hiện nay. Kinh nghiệm lập và sử dụng quỹ đào tạo tập trung ở các Cục dự trữ nhà nước khu vực trong giai đoạn qua cho thấy tính
4.4.2. Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước
4.4.2.1. Xác định mục tiêu công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức của ngành dự trữ nhà nước Việt Nam luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu chiến lược của ngành: Phát triển nhân lực ngành Tài chính nói chung, ngành dự trữ nhà nước nói riêng để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng là “Tạo bước chuyển căn bản, thực chất trong việc trang bị và nâng cao kiến thức, kỹ năng cho cán bộ, công chức; góp phần xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp có đủ năng lực xây dựng nền tài chính tiên tiến, hiện đại” [61]
Ngành dự trữ nhà nước luôn xác định đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò quan trọng phát triển đội ngũ công chức, xây dựng đội ngũ công chức đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, chất lượng đội ngũ công chức được nâng lên. Qua đó xây dựng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc cải cách chính hành chính, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Đào tạo, bồi dưỡng gắn với vị trí việc làm nhằm trang bị cho đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước với những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết cho đội ngũ công chức này nhằm tạo điều kiện cải thiện hiệu quả làm việc tại vị trí công việc hiện tại, đồng thời chuẩn bị cho đội ngũ công chức có trình độ, kỹ năng, thái độ và kiến thức có thể đảm nhiệm tại ví trí công việc mới, đáp ứng yêu cầu của quá trình hiện đại hóa bộ máy công chức ngành dự trữ nhà nước.
4.4.2.2. Xác định nhu cầu công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức:
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và định hướng phát triễn của ngành. Do đó, yêu cầu đào tạo,
bồi dưỡng đối với đội ngũ này là phải có kiến thức chính trị, trung thành với chế độ, tận tuỵ với công vụ, thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ quản lý, đáp ứng yêu cầu của việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức. Trong quá trình đào tạo lý luận phải đi đôi với thực tiễn, nội dung đào tạo phải sát với công việc của từng đối tượng công chức đang làm hoặc sẽ làm.
Xác định nhu cầu đào tạo, gắn kết với đào tạo và sử dụng cán bộ, công chức, khắc phục tình trạng đào tạo, bồi dưỡng sai địa chỉ, không đúng mục đích, đào tạo tràn lan, thiếu định hướng rõ ràng mà hậu quả ai cũng thấy là số lượng đào tạo, bồi dưỡng khá lớn mà vẫn chưa khắc phục được tình trạng hụt hẫng cán bộ, công chức.
- Không cử cán bộ, công chức theo học nhiều lớp cùng một thời điểm, không cử những công chức đã nhiều tuổi, công chức không thuộc diện quy hoạch, công chức đi học để giải quyết vấn đề lên lương…
- Đào tạo phải gắn với bố trí, sử dụng một cách khoa học.
- Tạo cơ chế phối hợp giữa Tổng cục Dự trữ Nhà nước với các trường, học viện... trong việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống các chính sách đào tạo, bồi dưỡng.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng, học tập kinh nghiệm nhằm mục tiêu tiếp thu kinh nghiệm, tiếp cận với kiến thức khoa học hiện đại của thế giới, nâng cao năng lực quản lý phù hợp với điều kiện thực tiễn của hoạt động ngành Dự trữ Nhà nước.
4.4.2.3. Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức:
Chương trình, nội dung đào tạo cần phải đổi mới, kết hợp trang bị kiến thức nghiệp vụ mới với việc nâng cao phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, tác phong, kiến thức pháp luật và kỹ năng thực hành cho đội ngũ cán bộ, công chức. Phải đào tạo cán bộ, công chức một cách toàn diện, trang bị kiến thức cơ bản và kiến thức chuyên ngành, gắn khoa học và công nghệ tiên tiến.
Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo trong nhà trường và đào tạo, rèn luyện trong thực tế. Cùng với việc đào tạo, học tập và bồi dưỡng trong trường lớp, thì vấn đề tự học tập, tự nghiên cứu và tự rèn luyện của bản thân người cán bộ, công chức có một vị trí vô cùng quan trọng. Trong vấn đề đào tạo cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất chú ý đến phương pháp học đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn, đặc biệt là phải biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày nay đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến kịp nhân dân. [17, tr.215]
4.4.2.4. Một số nội dung chủ yếu cần đổi mới để nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức:
a. . Đối với công tác đào tạo
Trươc hết, lãnh đạo cấpTổng cục, Cục và Chi cục phải coi trọng việc hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo ngắn hạn, dài hạn với nhiều nội dung khác nhau liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của ngành ngành dự trữ nhà nước một cách cụ thể, gắn với đặc điểm, điều kiện về trình độ, năng lực của đội ngũ công chức. Xác định nhu cầu đào tạo để xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo công chức theo từng năm và cả thời gian 5-10 năm, đảm bảo tính khả thi. Kế hoạch đào tạo phải xác định cụ thể, công chức cử đi đào tạo ở trường nào? Chuyên ngành nào? Lúc nào tiến hành đào tạo, đào tạo với nội dung như thế nào? Phải rạch ròi và có tính thống nhất, khắc phục tình trạng lâu nay kế hoạch đào tạo đề ra nhưng chỉ thực hiện 65% - 70%.
Xác định đối tượng cần đào tạo và thời gian đào tạo một cách khoa học, cân đối thống nhất với kế hoạch của các tổ chức từ Tổng cục cho đến các Cục và Chi cục để bố trí, sắp xếp công việc và thời gian đào tạo của công chức được thuận lợi, phù hợp. Đồng thời, việc đào tạo ngắn hạn phải được dàn trãi, phân bố trong từng năm, đào tạo dài hạn phải đảm bảo tính chiến lược, khắc phục tình trạng lâu nay cứ dồn vào một thời kỳ nhất định cũng như đào tạo xong khó bố trí công việc. Do đó, gặp khó khăn trong việc tổ chức cũng công chức thuộc đối tượng đào tạo theo đúng quy định.
Bảo đảm đến năm 2030, 90 % công chức ngành dự trữ nhà nước tại cấp Cục Chi cục có trình độ chuyên môn Đại học trở lên; 10% công chức còn lại có trình độ chuyên môn trung cấp phù hợp với công việc được giao, cụ thể là: