Yêu Cầu Đối Với Phát Triển Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước Việt Nam Đến Năm 2030

loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

- Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách. Xây dựng đội ngũ cán bộ và xây dựng tổ chức, đổi mới cơ chế chính sách, phương thức, lề lối làm việc có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau, có nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức, có tổ chức mới bố trí cán bộ, không vì cán bộ mà lập ra tổ chức. Mỗi cán bộ trong tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng. Quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải gắn với yêu cầu và nội dung xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới cơ chế chính sách.

- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.

* Phương hướng của Đảng về công tác cán bộ trong thời kỳ mới

Từ những quan điểm về công tác cán bộ, Đảng ta đã đề ra những phương hướng mục tiêu sau:

- Kết hợp chặt chẽ giữa sắp xếp, kiện toàn cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Hai mặt này gắn bó khăng khít với nhau. Có tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt của cán bộ thì mới có thể sắp xếp, kiện toàn cán bộ đủ sức đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức. Mặc khác, với lực lượng cán bộ hiện có, phải khéo sắp xếp, sử dụng để phát huy tốt hơn nữa mọi khả năng tiềm tàng của đội ngũ cán bộ. Sắp xếp, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn là tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách thiết thực và có hiệu quả. Sự trưởng thành của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý không thể chỉ nhờ học tập kiến thức trong nhà trường. Năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý nảy nở và phát triển trước hết từ trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, quy hoạch cán bộ không nên chỉ là quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, mà phải bao gồm cả hai mặt đào tạo, bồi dưỡng và sắp xếp, kiện toàn đội ngũ cán bộ, gắn chặt hai mặt ấy với nhau để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý vững mạnh.

- Đánh giá, lựa chọn, đề bạt cán bộ là một khâu trọng yếu trong nội dung công tác cán bộ của Đảng.

Đánh giá cán bộ, công chức chính xác là cơ sở quan trọng đầu tiên để bố trí, sử dụng, bồi dưỡng cán bộ. Đánh giá cán bộ, công chức trong sự vận động và phát triển không ngừng, trong các mối quan hệ chính trị và xã hội đa dạng, phức tạp, từ rất nhiều hiện tượng, sự việc cụ thể, riêng lẻ tìm ra mặt bản chất của người cán bộ. Đó quả không phải là một công việc dễ dàng, đơn giản. Đảng ta không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý cán bộ, công chức nhằm hiểu rõ cán bộ, công chức, đánh giá chính xác cán bộ, công chức và từ đó bố trí, đề bạt, sử dụng cán bộ, công chức ngày càng đúng đắn hơn.

- Chính sách cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 243 trang tài liệu này.

Cải cách tiền lương theo quan điểm coi chính sách tiền lương là chính sách đầu tư cho con người, cho phát triển kinh tế - xã hội, điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập xã hội. Nâng mức lương tối thiểu để cán bộ, công chức đủ sống bằng lương. Cải cách hệ thống thang lương trên cơ sở phân định rõ tính chất và đặc điểm lao động của các loại cán bộ, công chức, điều chỉnh những bất hợp lý về bội số và trong các thang, bảng lương. Thực hiện cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, thực hiện tiền tệ hoá tiền lương. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài tiền lương theo ngạch, bậc, theo cấp chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm việc ở những nơi xa xôi, hải đảo, miền núi... Ban hành và thực hiện chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và các chế độ đãi ngộ khác ngoài tiền lương đối với cán bộ công chức.

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành cải cách nền hành chính Nhà nước, một trong những nội dung cơ bản đó là vấn đề hoàn thiện chế độ công vụ và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng ta đề ra “Chiến lược xây dựng đội ngũ công chức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Xuất phát từ nhu cầu nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về

Phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam - 21

công vụ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó.

Ngày 08/11/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30c/NQ-CP ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Chương trình này được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn 1 (2011-2015); giai đoạn 2 (2016-2020).

Theo đó, trọng tâm cải cách hành chính trong những năm tới là cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công.

Trong lĩnh vực xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, phấn đấu đến năm 2020 đội ngũ công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, có năng lực và tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân. Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.

4.3.2. Yêu cầu đối với phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam đến năm 2030

4.3.2.1. Tạo sự chuyến biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả của công tác phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng góp phần xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.

- Nâng cao chất lượng toàn diện hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

- Xây dựng cơ chế, chính sách về công tác cán bộ thống nhất, khuyến khích cán bộ, công chức viên chức học tập và tự học để nâng cao trình độ, kỹ năng thực thi công vụ.

- Bảo đảm nâng cao năng lực, kỹ năng thực thi công vụ được giao; ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; gắn đào tạo, bồi dưỡng với nhu cầu và quy hoạch sử dụng lâu dài đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước.

- Đối với công chức ở Tổng cục, Cục:

Tập trung bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn quy định về trình độ lý luận chính trị; kiến thức quản lý nhà nước; kiến thức quốc phòng - an ninh; tin học; ngoại ngữ. Phấn đấu đến năm 2020, 100% công chức của ngành dự trữ nhà nước đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn quy định trước khi được bổ nhiệm vào ngạch; bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý. Bảo đảm hàng năm 100% công chức được cập nhật kiến thức pháp luật, được bồi dưỡng về đạo đức công vụ; 80% được bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực thi công vụ.

- Đối với công chức cấp Chi cục :

Bảo đảm đến năm 2020, 50% công chức ngành dự trữ nhà nước tại cấp Chi cục có trình độ chuyên môn đại học trở lên;50% công chức còn lại có trình độ chuyên môn trung cấp trở lên phù hợp vơi công việc được giao.

Hàng năm 60% công chức cấp Chi cục được bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp, đạo đức công vụ.

4.3.2.2. Tăng cường trách nhiệm và tạo điều kiện cho người đứng đầu cơ quan quản lý, người đứng đầu đơn vị sử dụng và bản thân công chức tham gia hoạt động đào tạo, bồi dưỡng một cách tích cực.

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức trước hết phải đổi mới nhận thức, tư duy về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng, chế độ đãi ngộ đối với công chức của ngành.

- Nâng cao nhận thức của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam - đối tượng trực tiếp thụ hưởng chính sách đào tạo bồi dưỡng: học để làm việc tốt hơn, hoàn thành nhiệm vụ được giao hiệu quả hơn.

- Nâng cao năng lực của Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ dự trữ nhà nước thông qua việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học thuận lợi, hiệu quả.

- Nâng cao năng lực biên soạn chương trình, tài liệu đối với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước đảm bảo tiến độ và chất lượng.

- Tăng cường đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cơ quan QLNN ngành môi trường Việt Nam theo hình thức tập trung, bán tập trung, bồi dưỡng theo hình thức học trực tuyến, các bài giảng điện tử có thể kết nối vói trang web của các cơ sở đào tạo theo quy định.

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng xây dựng văn bản pháp luật quy định rõ trình độ lý luận chính trị cho từng đối tượng công chức thuộc ngành dự trữ nhà nước.

- Cần chuyển dần đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức sang bồi dưỡng theo chức vụ lãnh đạo, quản lý và vị trí việc làm.

- Tập trung vào bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ công chức của ngành dự trữ nhà nước theo yêu cầu công việc.

- Có cơ chế khuyến khích công chức ngành dự trữ nhà nước tự học tập nâng cao trình độ phục vụ yêu cầu công việc, kỹ năng làm việc.

4.3.2.3. Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm hay về phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Vỉệt Nam ở trong nước, đồng thời chủ động nghiên cứu kinh nghiệm tiên tiến của các nước trong việc phát triển đội ngũ công chức nói chung để áp dụng phù hợp vào thực tiễn của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam.

Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước như: kết hợp đào tạo, bồi dưỡng trong nước với học tập, nghiên cứu ở nước ngoài.

4.3.3. Mục tiêu, quan điểm, phương hướng phát triễn đội ngũ công chức của ngành dự trữ nhà nước trong thời kỳ mới

4.3.3.1. Mục tiêu phát triển phát triển đội ngũ công chức của ngành dự trữ nhà nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030

- Mục tiêu dự trữ quốc gia là sẵn sàng, chủ động đáp ứng yêu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh; tham gia bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác của Nhà nước;

- Xây dựng dự trữ quốc gia đủ điều kiện và khả năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, có một lực lượng dự trữ quốc gia vững mạnh, cơ cấu hợp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất nước, có đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, hệ thống luật pháp hoàn chỉnh đồng bộ;

- Từng bước tăng cường quỹ dự trữ quốc gia có quy mô phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, cơ cấu danh mục mặt hàng hợp lý đủ điều kiện tác động kịp thời, góp phần ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội trong mọi tình huống biến động, đột xuất xảy ra. Tổng mức dự trữ quốc gia đến năm 2010 tăng gấp 2 lần tổng mức dự trữ quốc gia năm 2005 và đến năm 2020 tăng gấp 2 lần tổng mức dự trữ quốc gia năm 2010;

- Nâng cao chất lượng công tác bảo quản hàng dự trữ quốc gia; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, quy trình, quy phạm bảo quản, định mức kinh tế - kỹ thuật, từng bước đổi mới kỹ thuật và đưa các giải pháp công nghệ bảo quản mới vào công tác bảo quản hàng dự trữ quốc gia; bảo đảm trình độ kỹ thuật, công nghệ bảo quản hàng dự trữ quốc gia đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và ngang tầm với các nước tiên tiến;

- Tiếp tục kiện toàn, phát triển tổ chức quản lý dự trữ quốc gia theo hướng tập trung vào cơ quan quản lý dự trữ quốc gia chuyên trách; chú trọng phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, có phẩm chất chính trị và năng lực công tác ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. [70]

- Phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước nhằm có một đội ngũ công chức có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực thực tiễn vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa chủ động xúc tiến chuẩn bị xây dựng thế hệ công chức mới với phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác, thể lực, sức khỏe tốt, đủ về số lượng, tốt về chất lượng, có cơ cấu hợp lý, xử lý được những tình huống diễn ra trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

4.3.3.2. Một số quan điểm cần quán triệt

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kiện toàn và ổn định tổ chức, phát triển đội ngũ công chức của ngành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Thứ hai, xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn người có tài năng vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của ngành dự trữ nhà nước Việt Nam. Thực hiện thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo quản lý cấp Vụ, cấp Phòng theo Thông báo Kết luận số 202-TB/TW ngày 26 tháng 5 năm 2015 của Bộ Chính trị. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch lãnh đạo, quản lý các cấp theo quy định.

Thứ ba, triển khai mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức của ngành theo kế hoạch và quy hoạch đã đặt ra, đặc biệt đối với cán bộ trong diện quy hoạch lãnh đạo, quản lý của ngành; đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức của ngành dự trữ nhà nước gắn với kế hoạch, quy hoạch đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành; chú trọng bồi dưỡng kỹ năng mềm và năng lực tham mưu, đề xuất cơ chế chính sách về phát triển đội ngũ công chức của ngành.

Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức của ngành dự trữ nhà nước; gắn đào tạo với sử dụng và đào tạo theo nhu cầu của từng lĩnh vực hoạt động của ngành. Đa dạng hóa mạnh mẽ các hình thức đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công chức của ngành theo hướng đổi mới, hiệu quả, tránh dàn trải.

Thứ năm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam; thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng đội ngũ công chức của ngành phù hợp với yêu cầu của từng lĩnh vực công tác của ngành, phát huy năng lực và sở trường của đội ngũ công chức của ngành, đảm bảo sử dựng có hiệu quả đội ngũ công chức một cách tối ưu.

4.3.3.3. Phương hướng phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước

- Phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước luôn gắn với phát triển của ngành dự trữ nhà nước.

Đây là hai vấn đề có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước phải thể hiện “bào thai sinh đôi”. Muốn ngành dự trữ nhà nước phát triển thì tất yếu đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước phải phát triển về số lượng và chất lượng, có như vậy mới thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong lĩnh vực này.

- Nâng cao nhận thức về phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước trong quá trình thực hiện CNH - HĐH.

Nâng cao nhận thức về phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là một vấn đề đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và quá trình CNH - HĐH đất nước. Điều này đòi hỏi đội ngũ nói trên phải nâng cao nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện trong quá trình phát triển đất nước cũng như phát triển số lượng, chất lượng. Bản thân mỗi công chức trong ngành phải tự mình rèn luyện về ý thức tổ chức, tác phong, nâng cao tinh thần phục vụ cho đất nước, cho các đối tượng được hưởng từ quỹ dự trữ nhà nước, từ đó phát huy khả năng của mình, toàn tâm, toàn ý thực hiện tốt công việc được giao, không bao giờ có tư tưởng gây phiền hà, tiêu cực trong lĩnh vực này.

- Công tác tuyển dụng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước lại gắn với việc sắp xếp, bố trí, sử dụng đội ngũ công chức có hiệu quả thiết thực.

- Công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại đối với đội ngũ công chức là vấn đề luôn đặt ra có tính cấp bách. Do đó về mặt phương hướng, đội ngũ này cần phải được đào tạo một cách cơ bản về lĩnh vực chuyên ngành và liên ngành, cũng như được bồi dưỡng qua từng thời kỳ nhất định để nâng cao kỹ năng làm việc của mình. Đồng thời phải được đào tạo lại về việc đáp ứng yêu cầu của công việc đang đòi hỏi. Nếu tính riêng công tác đào tạo lại thì đại bộ phận công chức ngành dự trữ nhà nước cần phải đào tạo lại.

- Phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước phải ưu tiên phát triển khoa học công nghệ thông tin phù hợp với quá trình quốc tế hóa.

Ngành dự trữ nhà nước là một ngành khoa học tổng hợp. Do đó phải gắn liền với công việc chuyên môn, kỹ năng của đội ngũ này và gắn với khoa học công nghệ thông tin bởi vì sự thay đổi của khoa học công nghệ thông tin sẽ tác động ngày càng sâu rộng vào nghiệp vụ ngành nghề dự trữ nhà nước. Nếu đội ngũ này không nắm vững khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin thì rất khó thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao.

Xem tất cả 243 trang.

Ngày đăng: 19/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí