nghiên cứu về “Pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch” là việc làm cấp thiết và mang tính thời sự sâu sắc. Bởi những lẽ trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn về
kinh doanh lưu trú du lịch mà trong
những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như:
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Kim Dung năm 2007: “ Pháp luật về kinh doanh du lịchthực trạng và hướng hoàn thiện’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thị Mai Phước năm 2007: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Lâm Trâm Anh (2010) “Xử lý vi phạm hành chính trong lịch vực du lịch’’; Luận văn cử nhân
của Nguyễn Thị
Giáng Sao năm 2011 “
Đánh giá thực trạng trong hoạt động
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch - 1
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Kinh Doanh Lưu Trú Du Lịch
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Kinh Doanh Lưu Trú Du Lịch
- Vai Trò Của Hoạt Động Kinh Doanh Lưu Trú Du Lịch
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
quảng cáo tại khách sạn Sammy Đà Lạt”; Luận văn cử nhân của Nguyễn Thị
Hiền năm 2012 “ Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn Vietsovpetro” (2012)…
Các công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào phân tích sự quản lý nhà nước trong kinh doanh dịch vụ du lịch và pháp luật trong kinh doanh du lịch nói chung, hoặc so sánh đánh giá sự thay đổi giữa pháp lệnh Du lịch 1999 và LDL 2005, các cam kết khi gia nhập WTO đối với dịch vụ kinh doanh lữ hành. Các công trình nghiên cứu này chưa đi sâu phân tích pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực kinh doanh lưu trú du lịch một cách cụ thể. Dù vậy, các nghiên cứu này là những tài liệu tham khảo quan trọng, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu sâu hơn các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch.
Ngoài ra, qua nghiên cứu các bài viết, tạp chí liên quan tác giả còn tiếp cận
được một số bài báo đăng trên các tạp chí như Hoàng Thị Lan Hương (2010),
"Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm phát triển bền vững kinh doanh lưu trú du lịch ở một số nước trên thế giới" đăng trên Tạp chí Kinh tế phát triển số 2; Hải Dương (2008), "Một số bất cập trong hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch", đăng trên Tạp chí Du lịch Việt Nam số 11; hay một số bài viết trên các tờ báo điện tử, chẳng hạn như bài viết "Những thuận lợi khó khăn trong kinh doanh lưu trú du lịch khi luật du lịch thực thi” của tác giả Đỗ Thị Hồng Xoan…Tuy
nhiên những bài báo, kết quả nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc phân tích dưới góc độ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. Mặc dù vậy, các thông tin từ các bài viết trên cũng có những giá trị tham khảo nhất định cho việc nghiên cứu chuyên sâu pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch.
Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể các quy định của pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch nhằm bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. Do đó, việc nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này là một yêu cầu mang tính cấp thiết.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về du lịch và kinh doanh lưu trú du lịch và thực tiễn thi hành.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật du lịch về kinh doanh lưu trú du lịch.
Ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch của Việt Nam.
b. Đối tượng nghiên cứu:
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch, thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch.
c. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch, tác giả chủ yếu tập trung
nghiên cứu các quy định về kinh doanh lưu trú du lịch tại Luật Du lịch số
44/2005/QH11 và các văn bản hướng dẫn thi hành kết hợp với việc nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch.
Về thực tiễn: Tác giả nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch và hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch trong cả nước, đặc biệt là tại TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa MácLênin và phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp khảo sát được sử dụng tại Chương II phần thực trạng kinh doanh lưu trú: khảo sát các cơ sở kinh doanh lưu trú trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, thành phố Đà lạt để tìm ra được loại hình kinh doanh lưu trú mới;
phương pháp thu thập số liệu thực tế của các cơ sở kinh doanh lưu trú tại Đà Lạt, phương pháp phân tích; phương pháp so sánh được áp dụng chủ yếu trong phần 2.1 về thực trạng quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch như là: so sánh quy định của Luật Du lịch 2005 với Pháp lệnh du lịch 1999, so sánh các Nghị định hướng dẫn về kinh doanh du lịch để tìm ra sự chồng chéo và thiếu sót của các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch nói chung và kinh doanh lưu trú du lịch nói riêng; phương pháp tổng hợp: tổng hợp các nhận định của các chuyên gia, các công trình đã nghiên cứu trước đó, cũng như tổng hợp các số liệu về kinh doanh lưu trú du lịch. Từ các phương pháp trên, tác giả có được kết quả để đánh giá và nghiên cứu những nội dung cơ bản của luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Kết quả nghiên cứu giúp cho người đọc tiếp cận và đánh giá hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch dưới góc độ pháp luật và thực tiễn. Luận văn này có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người muốn tìm hiểu về pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch và thực tiễn thi hành, như người kinh doanh, sinh viên, và các nhà nghiên cứu.
Một số kiến nghị cũng có thể được những cơ quan chức năng quan tâm.
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kinh doanh lưu trú du lịch.
Chương 2: Thực trạng pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch và Định hướng hoàn thiện.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH
1.1. Khái niệm dịch vụ du lịch và lưu trú du lịch
Sự phát triển khoa học luôn gắn liền với việc xây dựng hệ thống các khái niệm. Bởi lẽ, khái niệm vừa là kết quả của tư duy khoa học vừa là phương tiện để tư duy. Vì thế, để nghiên cứu pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch chúng ta sẽ bắt đầu từ những khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ du lịch
Trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa xã hội của
các quốc gia. Về mặt kinh tế, đối với các nước đang phát triển du lịch
được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của quốc gia.3 Hội đồng lữ hành và Du lịch quốc tế (World travel and Tourism CouncilWTTC)
đã công bố
du lịch là một ngành kinh tế
lớn nhất thế
giới, vượt trên cả
ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Ở một số quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương.4
Chính vì vậy, du lịch hiện nay là mối quan tâm của nhiều quốc gia bởi nó đem lại một nguồn thu ngoại tệ lớn, thậm chí ở một số nước, du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Do vậy khái niệm về du lịch có
nhiều cách hiểu rất khác nhau.
Mathieson và Wall của Mỹ
cho rằng
"Du
lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ, là những hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để đáp ứng những nhu cầu của họ".5 Với quan niệm này, cho thấy du lịch có đối tượng hướng đến đó là người du lịch và thể hiện một hoạt động đơn thuần của khách du lịch. Cũng có quan niệm cho
3 Trần Đức Thanh (1998), Nhập môn khoa học du lịch, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội, tr. 5.
4 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa(2008), Giáo trình kinh tế du lịch, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 5.
5 Trần Đức Thanh (1998), tldd 3, tr. 12.
rằng du lịch là chuyến đi của con người trong một khoảng thời gian không nhằm mục đích kiếm tiền như trong định nghĩa của Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa Canada: "Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm". 6
Ở góc độ
bao quát hơn,
Tổ chức Du lịch Thế giới
(World Tourist
Organization) cho rằng du lịch là bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu,
trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ
ngơi, giải trí, thư
giãn; cũng như
mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục
nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng
loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một
dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.7
Đây là một định nghĩa tương đối đầy đủ và khái quát về du lịch.
Tóm lại, từ những định nghĩa trên cho thấy, khái niệm du lịch trên
thế giới có một nội hàm khá rộng, dùng để chỉ sự đi lại của con người tới những vùng, lãnh thổ khác ngoài nơi họ sinh sống, với bất cứ mục đích gì, chẳng hạn như tham quan, khám phá, nghỉ ngơi thư giản, thậm chí cả hành
nghề, nhưng loại trừ chân đến.
mục đích kiếm tiền một cách trực tiếp nơi họ
đặt
Ở một góc độ khác, du lịch còn được xem xét dưới khía cạnh kinh tế như đánh giá của Trường Tổng hợp kinh tế thành phố Varna, Bulgarie:
"Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội được lặp đi lặp lại đều đặn chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ và hàng hóa của các đơn vị kinh tế riêng biệt, độc lập đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn
6 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4.tr 15.
7 Nguồn từ: http://vi.wikipedia.org/wiki/Du_l%E1%BB%8Bch, truy cập ngày 19/8/2015.
uống, nghỉ ngơi với mục đích thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của những người lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của họ
để nghỉ
ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các nhu cầu về
văn hóa,
chính trị, kinh tế,v.v...) mà không có mục đích lao động kiếm lời".8
Như
vậy, từ
những phân tích trên đưa đến một nhìn nhận là, khái
niệm du lịch còn được đánh giá
ở góc độ
kinh tế, đó là một ngành kinh
doanh, sự trao đổi và cung cấp các dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng của con người trong một thời gian nhất định.
Mặc dù mới hình thành và phát triển trong thời gian ngắn nhưng pháp
luật du lịch Việt Nam đã có điều kiện tiếp thu những giá trị tích cực từ
quan niệm du lịch của các nước trên thế giới, đồng thời từng bước hoàn
thiện những quy định pháp luật nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động
du lịch. Theo điều 10 Pháp lệnh Du lịch năm 1999 thì du lịch là hoạt động
của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Với định nghĩa này thì du lịch mới dừng lại ở việc chỉ những hoạt động
của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình để thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng, Khoản 1 Điều 4 Luật Du lịch 2005 đã điều chỉnh khái niệm về du lịch theo hướng cụ thể hơn, theo đó thì "Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định". Như vậy, khái niệm du lịch theo quy định của Việt Nam có phạm vi khá hẹp, với bốn mục đích chính là tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng.
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh việc phát triển ngành du lịch thì cũng kéo theo các loại hình dịch vụ liên quan. Theo định nghĩa của ISO 9001:1991 dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa
người cung cấp và khách hàng, cũng như
nhờ
các hoạt động của người
8 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 15.
cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.9 Dịch vụ có thể được tiến hành nhưng không gắn liền với sản phẩm vật chất.10
Như vậy, có thể hiểu các hoạt động dịch vụ bổ trợ du lịch bao gồm các hình thức sau:
Thứ nhất, dịch vụ lữ hành,
Dịch vụ lữ hành gồm các hoạt động chính như: “Làm nhiệm vụ giao dịch kí kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch”.11 Trong đó tồn tại song song hai hoạt động phổ biến sau:
+ Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thành lập các chương trình du lịch trọn gói, hay từng phần; Quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay
gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chương trình và hướng dẫn du lịch.
chức thực hiện
+ Kinh doanh đại lý lữ hành(Travel Subagency Business) là việc
thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng
dẫn tham quan, bán các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng.
Thứ hai, dịch vụ lưu trú du lịch,
Kinh doanh lưu trú du lịch là hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú của khách du lịch. Dịch vụ này được thực hiện tại các cơ sở lưu trú du lịch, gồm: Khách sạn; Làng du lịch; Biệt thự du lịch; Căn hộ du lịch; Bãi cắm trại du lịch; Nhà nghỉ du lịch; Nhà ở có phòng cho khách thuê; và các cơ sở lưu trú du lịch khác.
Thứ ba, kinh doanh vận chuyển khách du lịch (Transportation),
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là việc cung cấp dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch theo tuyến du lịch và tại các khu du lịch, điểm du
lịch, đô thị
du lịch. Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự
dịch
9 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 94. 10 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 94. 11 Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 69.
chuyển của con người từ
nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư
trú thường
xuyên của họ, với một khoảng cách xa. Do vậy khi đề cập đến hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng, không thể không đề cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau như: Ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay… Thực tế cho thấy ít có doanh nghiệp du lịch (trừ một số tập đoàn du lịch trên thế giới) có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của họ đến điểm du lịch. Phần lớn trong các trường hợp khách du lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của các phương tiện giao thông đại chúng hoặc của các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ vận chuyển. Đây cũng là một loại hình kinh doanh có điều kiện.12
Thứ tư, dịch vụ phát triển khu du lịch,
Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch bao gồm đầu tư bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có, đưa các tài nguyên du lịch tiềm năng vào khai thác, phát triển khu du lịch, điểm du lịch mới; kinh doanh kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Chủ thể kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch phải xây dựng dự án phù hợp với phát triển du lịch, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ năm, dịch vụ du lịch khác.13
Ngoài các hoạt động kinh doanh như
đã nêu ở
trên, trong lĩnh vực
hoạt động kinh doanh du lịch còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình dịch vụ vui chơi giải trí; tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn đầu tư du lịch. Cùng với xu hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp du lịch dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh.
12 Điều 57 Luật Du lịch 2005
13 Mục 6 Chương V Luật Du lịch 2005.