- Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về dự trữ bắt buộc, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động;
-Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quyết định xử lý của Ngân hàng Nhà nước để bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng;
-Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng trong trường hợp tổ chức tín dụng nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng bị giải thể, phá sản hoặc bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi tổ chức đó đặt trụ sở chính thu hồi Giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động [25, Điều 28].
Sau khi bị thu hồi Giấy phép, Công ty Tài chính phải chấm dứt ngay mọi hoạt động đã ghi trong giấy phép.
Như vậy, môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh của các Công ty Tài chính ở Việt Nam được xác lập khá cơ bản và đầy đủ. Điều này đã tạo cơ sở pháp lý tốt cho các công ty khi tiến hành hoạt động. Những điều kiện, tiêu chuẩn pháp luật đã quy định khá chi tiết, nhiều quy định đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi đối với loại hình kinh doanh này. Chẳng hạn như các quy định về vốn pháp định, tiêu chuẩn đối với thành viên sáng lập, quản trị, điều hành, biện pháp kiểm soát đặc biệt. Qua đó đã thể hiện sự quan tâm của nhà nước phát triển loại hình tổ chức tín dụng này, làm phong phú thêm các loại hình tổ chức tín dụng trong thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế các quy định này của pháp luật nhiều lúc còn mang tính hình thức với quá nhiều giấy tờ và các thủ tục phức tạp. Tại điểm a khoản 1 điều 8 Nghị định số 79/2002/NĐ- CP quy định về điều kiện được cấp giấy phép thành lập Công ty Tài chính “phải có nhu cầu về hoạt động của Công ty
Tài chính trên địa bàn xin hoạt động” [2, Điều 8]. Đây là một quy định còn cứng nhắc, vô hình chung hạn chế quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Đánh giá một địa bàn có nhu cầu hoạt động của Công ty Tài chính hay không phụ thuộc vào sự phân tích thị trường và chiến lược kinh doanh của mỗi công ty. Riêng đối với các cơ quan quản lý nhà nước (Ngân hàng Nhà nước) cũng gặp khó khăn trong việc thẩm định cấp giấy phép, trong việc xác định như thế nào là có nhu cầu hoạt động của Công ty Tài chính khi không có những chuẩn mực cụ thể. Hay quy định “phải có phương án kinh doanh khả thi” cũng rất mơ hồ, không có chuẩn mực, hướng dẫn cụ thể để có thể xác định như thế nào là khả thi. Từ đó dẫn đến tình trạng thẩm định không đạt kết quả cao, tuỳ tiện trong việc cấp giấy phép.
2.2.1.2. Quy định về phá sản, giải thể và thanh lý Công ty Tài chính Nếu thành lập Công ty Tài chính là một thủ tục bắt buộc hình thành nên
Có thể bạn quan tâm!
- Vị Trí, Vai Trò Của Công Ty Tài Chính
- Những Vấn Đề Lý Luận Về Pháp Luậtthực Trạng Về Hoạt Động Của Công Ty Tài Chính Ở Việt Nnam
- Thực Trạng Pháp Luật Về Công Ty Tài Chính Ở Việt Nam
- Pháp luật về hoạt động của các Công ty Tài chính ở Việt Nam - 7
- Quy Định Về Chế Độ Tài Chính, Hạch Toán Và Báo Cáo
- Những Mặt Tồn Tại Của Công Ty Tài Chính Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
chủ thể mới thì giải thể, phá sản, thanh lý là nhằm chấm dứt tư cách pháp nhân của Công ty Tài chính với những điều kiện và hệ quả khác nhau. Theo quy định tại Điều 37 của Nghị định số 79/2002/NĐ- CP thì việc phá sản, giải thể, thanh lý Công ty Tài chính được thực hiện theo các quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định của Ngân hàng Nhà nước [2, Điều 37].
Phá sản Công ty Tài chính
Là một doanh nghiệp thành lập theo pháp luật Việt Nam do vậy khi Công ty Tài chính lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì theo quy định của Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sau khi Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của Tổ chức tín dụng mà Tổ chức tín dụng đó vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì có thể bị toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của Luật Phá sản. [22, Điều 98]. Các tài sản thanh lý cũng được giải quyết theo quy định của
Luật Phá sản.
Giải thể Công ty Tài chính
Giải thể một Công ty Tài chính cũng giống như giải thể một Tổ chức tín dụng, đó là việc chấm dứt sự tồn tại, xoá tên tổ chức tín dụng đó trong sổ đăng ký kinh doanh. Theo quy định của luật các Tổ chức tín dụng 1997 thì việc giải thể của Tổ chức tín dụng được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Tự nguyện xin giải thể nếu có khả năng thanh toán hết nợ và được ngân hàng Nhà nước chấp thuận;
- Khi hết thời hạn hoạt động mà Tổ chức tín dụng không xin gia hạn hoặc xin gia hạn mà không được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
- Bị thu hồi giấy phép hoạt động [22, Điều 99].
Công ty Tài chính giải thể phải tiến hành thanh lý ngay dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Mọi chi phí liên quan đến thanh lý do Công ty Tài chính chịu trách nhiệm.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế vận hành theo các quy luật khách quan, nó tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong đó muốn tồn tại được các doanh nghiệp vừa phải hợp tác vừa phải cạnh tranh nhau một cách mạnh mẽ. Điều này mang lại cơ hội phát triển rất lớn cho các doanh nghiệp có vốn, sự quản lý, hoạt động kinh doanh hiệu quả. Song lại là sự đào thải vô cùng khắc nghiệt với các doanh nghiệp yếu kém, không có sức cạnh tranh trên thị trường. Công ty Tài chính cũng không nằm ngoài quy luật đào thải này. Do đặc thù các hoạt động tín dụng ngân hàng có độ rủi ro rất lớn và có ảnh hưởng dây chuyền, để đảm bảo lợi ích của khách hàng và của nền kinh tế, ngoài các biện pháp bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro Nhà nước phải áp dụng cơ chế kiểm soát để hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng phá sản của các tổ chức tín dụng. Khi lâm vào trạng chuẩn bị phá sản, các công ty này sẽ được áp dụng biện pháp kiểm
soát đặc biệt. Mục đích chủ yếu của chế độ kiểm soát đặc biệt với Công ty Tài chính là nhằm giúp đỡ cho Công ty Tài chính đang gặp khó khăn về thanh toán, chi trả vượt qua được khó khăn tài chính đó, bảo vệ sự an toàn cho Công ty Tài chính và cho cả hệ thống tín dụng. Trong một thời gian cho phép (thường khoảng 2 năm) các Công ty Tài chính cùng sự giúp đỡ của Ngân hàng Nhà nước sẽ đề ra các biện pháp cần thiết để khắc phục khó khăn, khôi phục hoạt động bình thường. Trong trường hợp xấu nhất, khi mọi biện pháp khắc phục đều không hiệu quả thì Công ty Tài chính sẽ bị toà án mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản theo Luật phá sản, chấm dứt sự tồn tại của công ty.
Từ thực tế trên chúng ta có thể thấy, các cơ sở pháp lý để Công ty Tài chính thành lập và hoạt động đã có từ những năm 1990, được bổ sung quy định đã cụ thể và rõ ràng trong Nghị định số 79/2002/NĐ- CP, song cho tới nay số lượng và hiệu quả hoạt động của các Công ty Tài chính còn mờ nhạt chưa phát huy được hiệu quả vai trò của mình trong nền kinh tế. Trong một thị trường tiềm năng, có tốc độ phát triển kinh tế lớn thứ hai thế giới và tỷ lệ người dân tiếp xúc với các dịch vụ tài chính ngân hàng còn thấp (khoảng dưới 10%) như nước ta, đòi hỏi cần phải có đa dạng hơn nữa các loại hình Công ty Tài chính, từ đó mới đáp ứng tốt hơn được các nhu cầu về vốn và nhất là khai thác được lĩnh vực tài chính tiêu dùng hiện còn bị bỏ ngỏ trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
2.2.2. Quy định về tổ chức, quản trị, điều hành và kiểm soát của Công ty Tài chính
2.2.2.1. Tổ chức của Công ty Tài chính
Tuỳ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động, loại hình tổ chức hoạt động mà pháp luật quy định cơ cấu tổ chức của các Công ty Tài chính. Đối với những Công ty Tài chính có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng thì cơ cấu tổ chức bao gồm hội sở chính và đơn vị trực thuộc. Trong đó hội sở chính là cơ
quan quản lý và chỉ đạo hoạt động của toàn hệ thống, đồng thời trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Các đơn vị trực thuộc là các sở giao dịch, các chi nhánh, văn phòng đại diện được lập ở những nơi có nhu cầu hoạt động kể cả ở nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Bộ máy giúp việc tại hội sở chính, chi nhánh của Công ty Tài chính bao gồm: Văn phòng, các phòng (ban) chuyên môn, nghiệp vụ và các phòng giao dịch. Công ty Tài chính được thành lập công ty trực thuộc, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập để hoạt động dịch vụ tài chính, tiền tệ, môi giới, bảo hiểm, chứng khoán và tư vấn theo quy định của pháp luật.
Tại Quyết định số 24/2003/QĐ- NHNN ngày 7/01/2003 Ban hành quy định về việc mở và chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện của Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, quy định về điều kiện, hồ sơ, thủ tục mở sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện của Công ty Tài chính gồm nhiều nội dung, trong đó có các điều kiện về thời gian hoạt động tối thiểu là 2 năm kể từ ngày đi vào hoạt động và điều kiện về hoạt động kinh doanh có lãi là trong 2 năm gần nhất [12, Điều 4]. Những điều kiện này đối với các công ty mới hthành lập và đi vào hoạt động trong thời gian ngắn là rất khó. Do vậy, Quyết định số 01/2008/QĐ-NHNN ngày 09/01/2008 quy định về việc mở và và chấm dứt hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức tín dụng phi Ngân hàng đã rút ngắn điều kiện về thời gian hoạt động của Công ty Tài chính mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện là 01 năm. Riêng đối với Chi nhánh, Văn phòng đại diện ở nước ngoài thì Công ty Tài chính phải đáp ứng điều kiện có thời gian hoạt động tối thiếu là 03 năm. [17, Điều 4, Điều 11].
2.2.2.2. Quản trị, điều hành và kiểm soát Công ty Tài chính
Song song với bộ máy, cơ cấu tổ chức, việc quản trị, điều hành, kiểm soát của các Công ty Tài chính cũng được quy định cụ thể và chặt chẽ tại Nghị định số 79/2002/NĐ-CP; Thông tư số 06/2002/TT-NHNN và chịu sự
chi phối của các luật như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… Theo đó, Công ty Tài chính được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép có Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Tổng giám đốc (Giám đốc).
- Trong Công ty Tài chính, Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất, gồm tối thiểu là 3 thành viên và không quá 11 thành viên có chức năng quản trị công ty theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Các thành viên của Hội đồng quản trị phải là những người có uy tín, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết về hoạt động ngân hàng-tài chính.
- Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động tài chính của công ty, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán và hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ của công ty. Ban kiểm soát có số thành viên tối hiểu là 3 người, phải là những người có bằng đại học về tài chính, có đạo đức nghề nghiệp.
- Tổng Giám đốc (Giám đốc) chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị điều hành hoạt động hàng ngày theo nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Tổng Giám đốc (Giám đốc) phải có trình độ đại học trở lên về chuyên nghành kinh tế, ngân hàng- tài chính, ít nhất có 5 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực ngân hàng- tài chính, có năng lực điều hành và phải cư trú ở Việt Nam trong thời gian đương nhiệm.
Hiện nay, vì các Công ty Tài chính đã được thành lập ở Việt Nam đều có Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của công ty, và tuỳ thuộc quy mô hoạt động mà cơ cấu các bộ phận này ở các công ty là khác nhau. Có thể nói, pháp luật quy định về việc phân công các bộ phận lãnh đạo, quản lý Công ty Tài chính khá cụ thể, rõ ràng. Tương tự các tổ chức tín dụng khác, các công ty này đều nằm dưới sự quản lý điều hành của Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Ban Kiểm soát. Mỗi bộ phận có các chức năng, nhiệm vụ riêng, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho các phòng, ban thực hiện tốt công việc của mình. Ngoài những
quy định cụ thể về các tiêu chuẩn của mỗi thành viên, pháp luật còn có những quy định chung, cấm một số đối tượng không được là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc).
- Thứ nhất: Người điều hành, quản lý Công ty Tài chính phải là những người có năng lực, trình độ, có khả năng theo dõi hoạt động của công ty, có như thế họ mới có thể đảm nhiệm tốt vai trò của mình. Chính vì thế pháp luật quy định người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang bị kết án về các tội phạm an ninh quốc gia, các tội nghiêm trọng xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, sở hữu của công dân; các tội nghiêm trọng về kinh tế…không được tham gia quản lý, điều hành Công ty Tài chính. Đó là vì họ là những người không đủ tiêu chuẩn về đạo đức, uy tín, trình độ, không có khả năng điều hành và quản lý công ty. Nếu họ tham gia quản lý cũng sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả hoạt động, tới hình ảnh công ty. Thậm chí có thể do không đủ năng lực hành vi, hoặc động cơ đạo đức không tốt họ sẽ có những hành động không thể lường trước gây hậu quả không tốt tới toàn bộ hệ thống tín dụng.
- Thứ hai: pháp luật còn quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị không được đồng thời là Tổng Giám đốc (Giám đốc) hoặc Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) Công ty Tài chính. Chủ tịch Hội đồng quản trị không được phép tham gia Hội đồng quản trị hoặc tham gia điều hành Tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là công ty con của Công ty Tài chính. Các thành viên Ban Kiểm soát không được đồng thời là người điều hành, nhân viên tại Công ty Tài chính; Trưởng Ban kiểm soát không được đồng thời là thành viên Ban Kiểm soát, người điều hành tổ chức tín dụng khác. Tổng Giám đốc (Giám đốc) không được đồng thời là người điều hành hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đó là công ty con của Công ty Tài chính. Những
đối tượng này là những người quản lý do vậy hơn bất cứ một nhân viên nào khác trong công ty họ phải là những người trung thành với các quyền lợi của Công ty Tài chính, không được sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của Công ty Tài chính, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để thu lợi cá nhân hoặc để phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác làm tổn hại tới lợi ích của Công ty Tài chính. Chính vì vậy các quy định này là hết sức phù hợp nhằm ngăn chặn các quyết định thiếu khách quan, hạn chế sự thao túng quyền lực vào tay một người, khống chế hoạt động của Công ty Tài chính.
Trên thực tế các quy định cấm bổ nhiệm đối với các đối tượng này rất hợp lý nên được thực hiện khá triệt để. Tuy nhiên các quy định về cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành Công ty Tài chính còn có điểm thiếu hợp lý như tại khoản 12 điều 3 Quyết định số 516/2003/QĐ- NHNN ngày 26/5/2003 Ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng phi ngân hàng quy định “bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (giám đốc) không được bầu vào Hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc (Giám đốc)” [13, Điều 3]. Quy định này thiếu tính khách quan, mang tính quy chụp. Điều quan trọng của một thành viên ban điều hành, lãnh đạo công ty là khả năng, đạo đức của chính bản thân họ. Nếu vì có người thân đã tham gia quản lý công ty mà những tài năng không được trọng dụng là rất lãng phí chất xám của xã hội.
2.2.3. Quy định pháp luật về hoạt động của Công ty Tài chính
2.2.3.1. Hoạt động huy động vốn
Vốn là yếu tố quan trọng, do vậy, việc huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau là rất cần thiết cho sự ổn định và phát triển của công ty.
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 của Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Công ty Tài chính không được nhận tiền gửi cá nhân và cung ứng các dịch vụ