bảo lãnh. Đề nghị Tòa án xem xét lại hình thức bảo lãnh đối với thư bảo lãnh của chúng tôi.
2) Ý kiến của bà Huỳnh Thị Mỹ Đức : Chúng tôi chỉ thế chấp tòa nhà khách sạn SàiGòn Lodge chứ không thế chấp quyền sử dụng đất tại 215 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, TP.HCM. Sau khi phát mãi tài sản thế chấp, người mua phải ký hợp đồng thuê đất với ngươì có quyền sử dụng đất.
3) Ý kiến của Ông Saw Siang Kin, Ông Lim Chui Pher và Ông Lim Chooi Kui : Chúng tôi tôn trọng các quyết định của Tòa án liên quan đến việc Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge vay tiền tại Ngân hàng VID Public. Riêng về trách nhiệm bảo lãnh của chúng tôi thì chúng tôi vẫn chịu trách nhiệm. Hiện nay, Ngân hàng VID Public đang kiện chúng tôi tại Malaysia.
Tại bản án sơ thẩm số 67/KTST ngày 23/4/2001 Tòa án Nhân dân TP. Hồ
Chí Minh đã tuyên :
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàngVID Public, buộc Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge phải trả cho Ngân hàng VID Public số tiền là 431.279,70 USD, bao gồm :
Nợ gốc chưa thanh toán: 350.000,00 USD
Lãi phát sinh tính đến ngày 23/04/2001: 81.279,70 USD
Về cách trả nợ: Số nợ trên được trả bằng ngoại tệ, nếu không có ngoại tệ thì trả bằng đồng Việt Nam tương đương với 431.279,70USD theo tỷ giá mua của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh vào thời điểm thanh toán. Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge phải tiếp tục trả lãi theo mức lãi suất quá hạn do NHNN quy định trên số nợ gốc cho đến khi thanh toán xong nợ .
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - 22
- Pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - 23
- Pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - 24
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
Trong trường hợp Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge không trả được nợ cho Ngân hàng VID Public thì Công ty phải chịu các biện pháp cưỡng chế, kể cả việc phát mãi quyền khai thác và sử dụng tòa nhà Khách sạn SàiGòn Lodge trong thời hạn 11 năm còn lại của liên doanh (theo giấy phép đầu tư số 494/GP ngày 31/12/1992 thì thời hạn hoạt động của Công ty Liên doanh là 20 năm kể từ ngày
được cấp giấy phép đầu tư), sau thời gian đó tài sản được trả cho phía Việt Nam. Việc phát mãi tài sản phải tuân theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và đầu tư. Chủ nhân mới của tòa nhà khách sạn cũng chỉ được thực hiện quyền khai thác của mình giới hạn trong thời gian còn lại của liên doanh theo giấy phép đầu tư và phải thực hiện việc ký hợp đồng thuê đất với người có quyền sử dụng đất (Bà Huỳnh Thị Mỹ Đức) theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và đầu tư.
2/ Bác yêu cầu của Ngân hàng VID Public trong việc yêu cầu ông Võ Văn Bang, bà Huỳnh Thị Mỹ Đức phải trả nợ thay cho Công ty liên doanh khách sạn Sài Gòn Lodge nếu việc phát mãi khách sạn Sài Gòn Lodge không đủ trả nợ hoặc không phát mãi được.
3/ Về án phí : Công ty liên doanh khách sạn Sài Gòn Lodge phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là 33.280.700,00 đồng (Ba mươi ba triệu hai trăm tám mươi ngàn bảy trăm đồng), nộp tại Phòng thi hành án TP.Hồ Chí Minh. Hoàn toàn bộ tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 003444 ngày 03-4-1999 của Phòng Thi hành án TP. Hồ Chí Minh cho Ngân hàng VID Public
Ngày 03/5/2001, Ngân hàng VID public kháng cáo yêu cầu hai vấn đề :
- Phải tuyên buộc trách nhiệm hai người bảo lãnh là bà Đức và ông Bang phải trả nợ thay cho Công ty liên doanh Sài Gòn Lodge.
- Phải tuyên buộc phát mãi tòa khách Sài Gòn Lodge cùng quyền sử dụng đất của bà Đức nơi Tòa khách sạn tọa lạc.
Tại phiên Tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như trên.
Bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Ông Bang và bà Đức cho rằng họ phải ký bảo lãnh là do yêu cầu của nguyên đơn, họ là những thành viên của Công ty liên doanh phải ký mới cho vay. Vì vậy, việc ký bảo lãnh của họ không có cơ quan công chứng chứng nhận.
Ý kiến Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm: Đề nghị Tòa phúc thẩm xét xử theo hướng bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm .
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét
thấy:
Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai nhận của các bên đương sự
có cơ sở xác định giữa Ngân hàng VID Public và Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge có ký hợp đồng tín dụng số HCM/FL/93/1, HCM/RC/93/2 ký ngày 27/08/1993. Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge đã thừa nhận và cam kết phải hoàn trả số nợ vay luân chuyển là 431.279,70 USD cho Ngân hàng VID Public, trong đó:
Nợ gốc chưa thanh toán: 350.000,00 USD
Lãi phát sinh tính đến ngày 23/04/2001: 81.279,70 USD
Phần này các bên đương sự không kháng cáo, án sơ thẩm đã tuyên buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn các khoản tiền trên là hoàn toàn có căn cứ.
Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn cho rằng phải tuyên buộc trách nhiệm bà Đức và ông Bang phải trả nợ thay cho bị đơn trong trường hợp bị đơn không trả được nợ:
Xét trong việc Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge ký hợp đồng vay tiền tại Ngân hàng VID Public, ông Võ Văn Bang và bà Huỳnh Thị Mỹ Đức có làm văn bản bảo lãnh cho Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge vay tiền tại Ngân hàng VID Public. Nhưng việc bảo lãnh này chưa được Phòng công chứng Nhà nước chứng nhận. Tại khoản 3 Điều 2 của Nghị định 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy định “Bảo lãnh tài sản là sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Người nhận bảo lãnh phải có số tài sản bảo lãnh không ít hơn số tài sản mà người đó đã nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh tài sản phải được làm bằng văn bản có sự xác nhận về tài sản của Ngân hàng nơi người bảo lãnh giao dịch và cơ quan công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền
đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng)”. Như vậy, việc ông Bang và bà Đức lập giấy bảo lãnh cho Công ty Liên doanh khách sạn Gài Gòn Lodge vay tiền tại Ngân hàng VID Public là không phù hợp với quy định pháp luật về bảo lãnh. Lẽ ra án sơ thẩm phải tuyên vô hiệu hợp đồng bảo lãnh này. Nhưng xét thấy trong phần nhận định án sơ thẩm đã có nêu và phần quyết định đã không tuyên buộc trách nhiệm hai người bảo lãnh này là phù hợp, nên xét thấy không cần thiết sửa án sơ thẩm. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của nguyên đơn .
Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên buộc phát mãi quyền sở hữu đối với tòa khách sạn và quyền sử dụng đất của bà Đức :
Đối với hợp đồng tín dụng số HCM/FL/93/1, HCM/RC/93/2 ký ngày 27/08/1993, để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng tín dụng này thì Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge đã thế chấp Khách sạn SàiGòn Lodge tại 215 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, TP.HCM của Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge cho Ngân hàng VID Public, việc thế chấp này đã được Phòng Công chứng Nhà nước số 1 TP.Hồ Chí Minh chứng nhận số 51771 ngày 30/03/1993 và số 80208 ngày 15/11/1994.
Khách sạn SàiGòn Lodge tọa lạc tại 215 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Thửa đất này có diện tích 815m2 tại thời điểm hiện nay vẫn thuộc quyền sử dụng đất của bà Huỳnh Thị Mỹ Đức theo Quyết định chứng nhận quyền sử dụng đất số 944/QĐ-ĐĐ ngày 15-10-1993 của Ban quản lý đất đai Thành phố Hồ Chí Minh. Do giới hạn của Luật Đất đai năm 1993 và Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất ngày 14- 10-1994 thì tư nhân không được đưa quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh với nước ngoài, nên Công ty liên doanh khách sạn Sài Gòn Lodge không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khách sạn SàiGòn Lodge là tài sản của Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge, nên việc thành lập và hoạt động của Công ty liên doanh khách sạn Sàigòn Lodge phải chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và giấy phép đầu tư. Theo giấy phép đầu tư, thời hạn của liên doanh là
20 năm, đất sử dụng là thuê, thời hạn hoạt động của liên doanh còn lại 11 năm, sau thời gian đó tài sản được trả cho phía Việt Nam. Do đó, nếu Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge không trả được nợ cho Ngân hàng VID Public thì Công ty liên doanh phải chịu các biện pháp cưỡng chế, kể cả việc phát mãi quyền khai thác và sử dụng tòa nhà Khách sạn SàiGòn Lodge trong thời hạn 11 năm còn lại của liên doanh (theo giấy phép đầu tư số 494/GP ngày 31/12/1992 thì thời hạn hoạt động của Công ty Liên doanh là 20 năm kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư), sau thời gian đó tài sản được trả cho phía Việt Nam. Việc phát mãi tài sản phải tuân theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và đầu tư. Chủ nhân mới của tòa nhà khách sạn khách sạn Sàigòn Lodge cũng chỉ được thực hiện quyền khai thác của mình giới hạn trong thời gian còn lại của liên doanh theo giấy phép đầu tư số 494/GP ngày 31/12/92 và phải thực hiện việc ký hợp đồng thuê đất với người có quyền sử dụng đất (Bà Huỳnh Thị Mỹ Đức) theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Tranh chấp này phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng tín dụng ký giữa Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge với Ngân hàng VID Public, chứ không giải quyết tranh chấp trong việc góp vốn giữa các bên liên doanh trong Công ty liên doanh khách sạn SàiGòn Lodge. Do đó, không thể đưa quyền sử dụng đất tại 215 Nam Kỳ Khởi Nghĩa của bà Huỳnh Thị Mỹ Đức vào liên doanh mà không có sự đồng ý của các bên liên doanh. Mặt khác, trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án này, Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng đã có công văn số 7916/BKH/QLDA ngày 14/11/1998 hướng dẫn các bên lập hồ sơ trình Bộ Kế hoạch và đầu tư xem xét điều chỉnh giấy phép nhưng các bên vẫn không thực hiện. Ngày 17/07/2000, Bộ Kế hoạch và đầu tư có công văn số 4388/BKH-QLDA nêu rõ “Việc phát mãi chỉ tiến hành đối với tòa nhà theo đúng thỏa thuận tại hợp đồng thế chấp ký ngày 15/11/1994 mà không phát mãi quyền sử dụng đất nơi tòa nhà tọa lạc và trang thiết bị; đồng thời việc phát mãi chỉ để thu đủ khoản nợ còn thiếu. Thời gian phát mãi quyền khai thác tòa nhà không dài hơn thời gian còn lại của dự án quy định tại giấy phép đầu tư số 494/GP ngày 31-12-1992. Sau khi tòa nhà được phát mãi, chủ nhân
mới của Tòa nhà phải sử dụng tòa nhà đúng mục đích quy định tại giấy phép đầu tư và phải trả tiền thuê đất trong thời gian khai thác cho người được giao quyền sử dụng đất”.
Do đó không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của nguyên đơn .
Từ những nhận định trên,Tòa phúc thẩm TANDTC tại TP. Hồ Chí Minh xét thấy có cơ sở để chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm .
Để đảm bảo thi hành án, cần phải duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 239/QĐADBPKCTT ngày 31/7/2001.
Căn cứ Điều 70 khoản 1 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
TÕA PHÖC THẨM TÕA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI TP. HỒ CHÍ MINH QUYẾT ĐỊNH:
1. Về hình thức: Chấp nhận đơn kháng cáo của Ngân hàng VID Public vì được làm trong hạn Luật định.
2. Về nội dung : Bác yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng VID Public và giữ nguyên bản án kinh tế sơ thẩm số 67/KTST ngày 23/04/2001 của Tòa án Nhân dân TP. Hồ Chí Minh .
3. Để đảm bảo thi hành án cần phải duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 239/QĐADBPKCTT ngày 31/7/2001.
4. Án phí kinh tế phúc thẩm : Ngân hàng VID Public phải chịu án phí kinh tế phúc thẩm là 200.000 đồng được cấn trừ tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp.