chiếm tỷ trọng giao dịch lớn hơn. Trong tiếng Việt, chứng khoán còn được hiểu theo nghĩa hẹp là chứng khoán cổ phần và các chứng khoán phái sinh.
1.1.2. Phân loại
Tùy theo tiêu chí lựa chọn mà người ta có thể phân loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Với giới hạn của bài luận, em xin đề cập đến hai tiêu chí cơ bản đó là, (a) theo tính chất của chứng khoán; (b) theo quan hệ giữa chủ thể phát hành và chủ sở hữu chứng khoán.
Theo tính chất chứng khoán được chia thành ba loại là chứng khoán vốn, chứng khoán nợ và các loại chứng khoán phái sinh.
Chứng khoán vốn là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn góp và các quyền hợp pháp khác. Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư.
Chứng khoán nợ: điển hình là trái phiếu, tín phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất địn bao gồm cả gốc và lãi trong những khoảng thời gian cụ thể.
Chứng khoán phái sinh: là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán và phát triền phụ thuộc vào mức độ phát triển của TTCK. Có thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các loại (i) Quyền mua trước, (ii) Chứng khế, (iii) Hợp đồng kỳ hạn, (iv) Hợp đồng tương lai, (v) Quyền chọn.
Theo quan hệ giữa chủ thể phát hành và chủ sở hữu chứng khoán
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và chủ sở hữu chứng khoán có: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và một số chứng khoán phái sinh như chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam - 1
- Vai Trò Của Pháp Luật Về Chào Bán Chứng Khoán Riêng Lẻ
- Quy Định Về Chủ Thể Chào Bán Cổ Phiếu Riêng Lẻ
- Quy Định Về Điều Kiện Chào Bán Trái Phiếu Riêng Lẻ
Xem toàn bộ 66 trang tài liệu này.
Đây là cách phân loại phổ biến và thông dụng hiện nay vì nó thể hiện được đặc trưng của chứng khoán theo tiêu chí phân loại nói trên.
Cổ phiếu: Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu với các tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần, hay nói cách khác cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn của một chủ thể vào công ty cổ phần. Đây là loại chứng khoán rất quan trọng cho việc tạo lập cũng như đi vào hoạt động của TTCK. Có nhiều định nghĩa khác nhau về cổ phiếu. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam thì: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn góp cổ phần của tổ chức phát hành”. Trong thực tế, thường có nhiều loại cổ phiếu như cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi trong đó cổ phiếu ưu đãi được chia thành nhiều lại cho nhà đầu tư những khả năng lựa chọn đồng thời tạo cơ hội cạnh tranh cho tổ chức phát hành.
Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán nợ yêu cầu nhà phát hành (người đi vay) phải trả cho nhà đầu tư trái phiếu (người cho vay) một khoản tiền bao gồm tiền gốc và tiền lãi trái phiếu sau một thời gian nhất định. Đây là chứng khoán nợ do DN hoặc Chính phủ phát hành xác nhận quyền của chủ sở hữu đối với khoản nợ của chủ thể đó. Khoản nợ được tổ chức phát hành cam kết trả lại cho chủ sở hữu tại một thời điểm trong tương lai với một khoản lãi nhất định. Trái phiếu cũng có nhiều loại như trái phiếu DN, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương.
Trái phiếu và cổ phiếu là hai loại chứng khoán phổ biến nhất hiện nay. Mỗi loại có một ưu thế riêng, đem lại cho nhà đầu tư những khả năng lựa chọn để phù hợp với nhu cầu của mình. Trái phiếu và cổ phiếu khác nhau ở một số điểm sau đây:
Một là, về bản chất, nếu như cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn thì trái phiếu lại là chứng khoán nợ. Cổ phiếu xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành còn trái phiếu xác
nhận quyền và lợi ích của chủ sở hữu đối với phần vốn nợ. Như vậy chủ sở hữu cổ phiếu là cổ đông của tổ chức phát hành còn chủ sở hữu trái phiếu là chủ nợ của tổ chức đó. Hệ quả là cổ đông có thể tham gia vào việc quản lý điều hành doanh nghiệp còn chủ nợ thì không có quyền này.
Hai là, về tính sinh lời, cổ phiếu có tính sinh lời cao hơn trái phiếu. Điều này xuất phát từ bản chất của hai loại chứng khoán này. Cổ phiếu là chứng khoán xác nhận phần vốn cổ phần vì vậy mà khả năng đem lại một khoản thu nhập phụ thuộc trực tiếp vào tình hình sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành. Một DN “ăn nên làm ra” “lãi mẹ đẻ lãi con” thì cổ phiếu của DN đó có giá rất cao, người sở hữu cổ phiếu có thể thu được một khoản tiền khá lớn. Trái lại khả năng sinh lời của trái phiếu bao giờ cũng ở một mức nhất định và khoản tiền này thường không đáng kể.
Ba là, về tính thanh khoản. Xuất phát từ tính sinh lời, cổ phiếu có tính sinh lời cao hơn trái phiếu nên nó cũng có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt nhanh hơn.
Bốn là, về tính rủi ro. Cổ phiếu có tính rủi ro cao hơn trái phiếu. Chỉ cần một biến động nhỏ của thị trường cũng có thể khiến giá cổ phiếu giảm mạnh, thậm chí là vài lần. Trong khi đó, lãi suất của trái phiếu luôn là một tỷ lệ nhất định so với mệnh giá.
Năm là, về tính thời hạn. Nếu cổ phiếu có tính dài hạn thì thời hạn của trái phiếu là ngắn hơn. Thông thường kỳ hạn của trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương là năm năm.
Chứng chỉ quỹ đầu tư: Đây là một loại chứng khoán đặc biệt. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chứng chỉ quỹ đầu tư là “chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đối với phần vốn góp của quỹ đại chúng”. Chứng chỉ quỹ cũng có một số đặc điểm giống cổ phiếu và trái phiếu, tuy nhiên nó lại không tham gia vào việc hình thành vốn của DN. Đồng thời chủ sở hữu chứng chỉ quỹ không được tham gia vào việc quản lý, điều hành quỹ. Pháp luật của các quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau về chứng chỉ
quỹ và công ty quản lý quỹ nên quyền và lợi ích của chủ sở hữu là khác nhau. Tuy nhiên về bản chất, chứng chỉ quỹ luôn là một loại chứng khoán vốn.
Ngoài ra nếu chia theo chủ thể phát hành thì còn có chứng khoán do DN phát hành và chứng khoán do chính phủ phát hành. Nội dung khóa luận dưới đây em sẽ tập trung nghiên cứu về cổ phiếu và trái phiếu do DN phát hành.
1.1.3. Đặc điểm cơ bản
Chứng khoán là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản sau:
Tính thanh khoản (Tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với các tài sản khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung, các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau.
Tính rủi ro: Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất,… Rủi ro không hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản. Loại rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành. Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức, người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi người ta kỳ vọng được bù đắp bằng lợi tức tăng thêm.
Tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng
khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý ở mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.
Hình thức của chứng khoán: Hình thức của các loại chứng khoán có thu nhập (cố định hoặc biến đổi) thường bao gồm phần bìa và phần bên trong. Ngoài bìa ghi rõ quyền đòi nợ hoặc quyền tham gia góp vốn. Số tiền ghi trên chứng khoán được gọi là mệnh giá của chứng khoán. Đối với giấy tờ có giá với lãi suất cố định bên trong có phiếu ghi lợi tức (Coupon) ghi rõ lãi suất hoặc lợi tức sẽ được hưởng.
Đối với giấy tờ có giá mang lại cổ tức (cổ phiếu) bên trong chỉ ghi phần thu nhập nhưng không ghi xác định số tiền được hưởng, nó chỉ đảm bảo cho người sở hữu quyền yêu cầu về thu nhập do kết quả kinh doanh của công ty và được phân phối theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Ngoài phiếu ghi lợi tức còn kèm theo phiếu ghi phần thu nhập bổ sung (xác nhận phần đóng góp luỹ kế).
1.2. Chào bán chứng khoán
1.2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán
Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán. Chào bán chứng khoán được hiểu là việc đưa chứng khoán vào giao dịch tại TTCK sơ cấp. Tại đây vốn của nhà đầu tư sẽ được chuyển giao cho tổ chức chào bán thông qua việc nhà đầu tư mua chứng khoán. Phải nói rằng chỉ có hoạt động chào bán mới làm tăng hàng hoá cho TTCK. Hơn thế, thông qua hoạt động chào bán, tổ chức chào bán mới có thể thành lập, tăng vốn điều lệ phục vụ nhu cầu kinh doanh hoặc bù đắp sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước.
Chào bán chứng khoán là tiền đề của các hoạt động khác liên quan đến chứng khoán. Nếu so sánh chào bán chứng khoán và kinh doanh chứng khoán có thể thấy điểm khác biệt sau, đó là hoạt động chào bán chứng khoán chỉ diễn ra trên thị trường sơ cấp trong khi kinh doanh chứng khoán lại chỉ diễn ra trên thị
trường thứ cấp. Nếu như hoạt động kinh doanh chứng khoán có đối tượng là chứng khoán cùng các dịch vụ khác liên quan đến chứng khoán thì hoạt động chào bán chứng khoán có đối tượng là chứng khoán.
Đây cũng chính là những đặc điểm đặc thù của chào bán chứng khoán. Được thể hiện ngay ở tên gọi, “chào bán riêng lẻ” có thể thấy được đây là đặc điểm phân biệt rõ ràng nhất đối với “chào bán ra công chúng”.
Ở Hoa Kỳ, khái niệm về chào bán chứng khoán không được định nghĩa trong Luật Chứng Khoán (LCK) 1933 và cũng không được định nghĩa bởi Tòa Án. Hoạt động chào bán chứng khoán trong đó tất cả những người được chào bán cần được bảo vệ thông qua việc đăng ký chào bán của chủ thể chào bán với cơ quan quản lý nhà nước.
Với Trung Quốc thì khái niệm về chào bán chứng khoán được hiểu là cuộc phát hành đáp ứng các điều kiên luật định và phải được báo cáo với cơ quan quản lý chứng khoán xem xét và phê chuẩn.
1.2.2. Đặc điểm và phương thức chào bán chứng khoán
Chào bán chứng khoán có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể chào bán chứng khoán rất đa dạng: có thể là chính phủ, chính quyền địa phương và đa dạng các loại hình DN.
Thứ hai, đối tượng của chào bán chứng khoán là chứng khoán. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán là hàng hóa không thể thiếu của TTCK. Vì vậy, muốn TTCK đi vào hoạt động thì phải đưa hàng hóa là chứng khoán vào lưu thông tại thị trường này.
Thứ ba, chào bán chứng khoán chỉ được thực hiện trên thị trường sơ cấp. Thị trường này là nơi diễn ra giao dịch trực tiếp giữa tổ chức chào bán và nhà đầu tư. Theo đó, chứng khoán được bán lần đầu cho nhà đầu tư. Điều đó có
nghĩa là thông qua thị trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới thực sự chuyển cho tổ chức chào bán.
Phương thức chào bán chứng khoán:
Phương thức chào bán chứng khoán là phương pháp và hình thức thực hiện việc chào bán chứng khoán. Có hai phương thức chào bán chứng khoán là chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc mà chủ thể chào bán đưa chứng khoán ra đại bộ phận công chúng đầu tư. Chào bán chứng khoán ra công chúng có một số đặc trưng sau: (i) Việc chào bán chỉ được thực hiện sau khi chủ thể phát hành đã đăng kí chào bán với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lí TTCK; (ii) Việc chào bán thường được tiến hành thông qua tổ chức trung gian là các công ty bảo lãnh phát hành hoặc đại lí phát hành chứng khoán; (iii) Việc chào bán thực hiện trên phạm vi lớn, thu hút số lượng lớn nhà đầu tư bỏ vốn để mua chứng khoán trong đợt phát hành; (iv) Giá trị chứng khoán đã chào bán thường phải đạt tới mức độ nhất định nhằm tập trung được lượng vốn lớn, giúp chủ thể phát hành thực hiện được dự án mở rộng quy mô kinh doanh hoặc đầu tư mới.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ là hoạt động chào bán chứng khoán của chủ thể phát hành cho các khách hàng đặc biệt, thường là các nhà đầu tư có tổ chức và không bán rộng rãi ra công chúng. Chào bán chứng khoán riêng lẻ có một số đặc trưng sau:
(i)Tính chuyên nghiệp của các nhà đầu tư. Tức là các nhà đầu tư được chào bán chứng khoán riêng lẻ phải có khả năng tiếp cận cùng loại thông tin về việc chào bán, có khả năng tự hiểu và tự đánh giá được những thông tin đó.
(ii)Tổ chức phát hành và bất kì tổ chức nào đại diện cho tổ chức phát hành phải thực hiện những hành vi cần thiết để đảm bảo rằng thông tin cần thiết về tổ chức phát hành và về chứng khoán sẽ chào bán đến với những người được chào bán và người mua là đầy đủ và chính xác.
(iii)Có sự giới hạn về số lượng nhà đầu tư vì nếu số lượng lớn thì cuộc chào bán có khả năng phải đăng kí dưới hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng.
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây dựng một TTCK an toàn, công khai và có hiệu quả.
Hoạt động phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty. Chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên TTCK sơ cấp.
Trong khuôn khổ của đề tài, em tập trung nghiên cứu pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
1.3. Pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ
1.3.1. Khái niệm về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ
Pháp luật về chào bán chứng khoán là tổng hợp các nguyên tắc, định hướng cơ bản cho cơ chế của hoạt động chào bán chứng khoán, là tổng hợp những quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền bàn hành nhằm điều chỉnh các hoạt động liên quan đến quá trình chào bán chứng khoán. Thông thường các quy định này bao gồm: Điều chỉnh về chủ thể chào bán, điều kiện phát hành (chào bán), thẩm quyền chào bán,… của các tổ chức phát hành. Từ khái niệm trên, có thể định nghĩa khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ bao gồm: chủ thể chào bán, điều kiện chào bán, phương thức phát hành, thẩm quyền quyết định, trình tự - thủ tục chào bán,…
1.3.2. Nội dung về pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Một là, quy định về chủ thể phát hành: Pháp luật các nước có TTCK đều quy định các điều kiện về chủ thể phát hành để đảm bảo chất lượng các chứng