Mục Tiêu, Vai Trò, Ý Nghĩa Của Quản Lý Rủi Ro.


cơ hội thành công (Đoàn Thị Hồng Vân, 2007. Giáo trình Quản trị rủi ro và khủng hoảng. Nhà xuất bản Lao động - Xã hội)

1.1.3.2. Mục tiêu, vai trò, ý nghĩa của quản lý rủi ro.

Quản lý rủi ro có mục tiêu và vai trò vô cùng to lớn và có thể có nhiều đóng góp cho doanh nghiệp. Mục tiêu, vai trò, ý nghĩa của hoạt động quản lý rủi ro được tóm tắt trong bốn điểm dưới đây:

Thứ nhất, hoạt động quản lý rủi ro sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh khỏi nguy cơ phá sản. Có thể nói, đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp là lý do quan trọng nhất cho sự tồn tại của hoạt động quản lý rủi ro. Nói cách khác, hoạt động quản lý rủi ro có nhiệm vụ giúp cho doanh nghiệp có thể theo đuổi các mục tiêu của mình mà không bị phá sản bởi những rủi ro phát sinh trong quá trình theo đuổi các mục tiêu đó.

Thứ hai, hoạt động quản lý rủi ro có đóng góp trực tiếp vào lợi nhuận của doanh nghiệp nhờ vào hoạt động kiểm soát chi phí liên quan đến rủi ro của doanh nghiệp vì lợi nhuận phụ thuộc vào tương quan giữa chi phí và thu nhập của doanh nghiệp. Khi hoạt động hạn chế rủi ro góp phần làm giảm chi phí sẽ góp phần làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Có nhiều cách để hoạt động quản trị rủi ro có thể làm giảm chi phí như các hoạt động nhằm ngăn ngừa rủi ro xảy ra, hay bằng việc xác định chính xác những rủi ro nào cần bảo hiểm, rủi ro nào không cần, những rủi ro nào chỉ cần chuyển đổi một phần, những rủi ro nào cần chuyển đổi toàn bộ mà doanh nghiệp có thể giảm chi phí mua bảo hiểm mà vẫn đảm bảo ngăn ngừa được rủi ro hiệu quả.

Thứ ba, hoạt động quản lý rủi ro còn giúp doanh nghiệp tránh được những giảm sút về thu nhập hoặc thiệt hại về tài sản. Bằng việc phát hiện các rủi ro trong dự án kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động quản trị rủi ro có khả năng ngăn chặn kịp thời các tổn thất, qua đó tránh được hoặc giảm những thiệt hại về thu nhập hoặc tài sản cho doanh nghiệp.

Thứ tư, hoạt động quản lý rủi ro giúp giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp nên nó có thể giúp cho doanh nghiệp tham gia vào những dự án có khả năng sinh lời cao.


1.1.3.3. Các nội dung của quản lý rủi ro.

Cũng như các hoạt động quản lý thông thường quá trình quản lý rủi ro được trải dài ở ba khâu từ nhận dạng rủi ro, phân tích đánh giá đo lường rủi ro để có thể triển khai các hoạt động nhằm kiểm soát và phòng ngừa rủi ro cũng như các hoạt động dự phòng khi rủi ro xảy ra.

Quản lý rủi ro gồm những nội dung chính sau:

- Nhận dạng và phân tích rủi ro.

- Đo lường rủi ro.

- Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro.

a. Nhận dạng và phân tích rủi ro.

Nội dung đầu tiên của hoạt động quản lý rủi ro đó là phải nhận dạng được rủi ro. Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm thu thập các thông tin về các đối tượng có thể gặp rủi ro (con người, tài sản, trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp), các nguồn phát sinh rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa, các loại tổn thất mà rủi ro có thể gây ra cho doanh nghiệp. Trên cơ sở những thống kê đó sẽ tiến hành phân tích rủi ro nhằm xác định nguyên nhân gây ra các rủi ro cũng như các nhân tố làm gia tăng khả năng xảy ra rủi ro cho doanh nghiệp.

- Phương pháp phát hiện rủi ro: Về phương pháp nhận dạng hay phát hiện rủi ro, có nhiều phương pháp để tiến hành tuy nhiên có hai phương pháp chủ yếu được sử dụng để phát hiện rủi ro bao gồm:

+ Phương pháp dựa trên những rủi ro đã xảy ra trong quá khứ: phương pháp này dựa trên các rủi ro doanh nghiệp đã gặp phải trong quá khứ để xác định những rủi ro mà doanh nghiệp có thể sẽ phải đối mặt trong tương lai.

+ Phương pháp hệ thống an toàn: là phương pháp xây dựng những mô hình mô phỏng rủi ro trên cơ sở những phân tích về quy trình hoạt động và môi trường hoạt động, qua đó sẽ phát hiện những rủi ro nảy sinh trong môi trường giả lập đó.

- Các công cụ phát hiện rủi ro: Đồng thời với các phương pháp trên, để phát


hiện rủi ro có rất nhiều các công cụ có thể sử dụng, tuy nhiên các nhà quản trị thường chọn và sử dụng các công cụ sau:

+ Bảng câu hỏi phân tích rủi ro: Đây là công cụ chủ yếu được sử dụng trong phát hiện rủi ro. Các câu hỏi có thể được sắp xếp theo nguồn gốc rủi ro, hoặc theo môi trường tác động (vi mô, vĩ mô, bên trong, bên ngoài)… xoay quanh các vấn đề như các rủi ro mà doanh nghiệp đã gặp phải, mức độ tổn thất, số lần xuất hiện rủi ro trong một thời gian nhất định, những biện pháp phòng ngừa đã sử dụng và hiệu quả của chúng.

+ Danh mục các nguy cơ: liệt kê các rủi ro thường gặp.

+ Danh mục các rủi ro được bảo hiểm: danh mục này có thể lấy từ các công ty bảo hiểm nhằm xác định những rủi ro nào có thể di chuyển hay chia sẻ bằng các hợp đồng bảo hiểm.

+ Các hệ thống chuyên gia: đây là các quy trình phát hiện rủi ro được xây

dựng sẵn cho từng lĩnh vực nhất định, là sự kết hợp cả ba công cụ trên.

- Quy trình phát hiện rủi ro: Với các phương pháp và công cụ phát hiện rủi

ro, quy trình phát hiện rủi ro thường được tiến hành qua các bước sau:

+ Định hướng: đây là bước đầu tiên phải thực hiện để phát hiện các rủi ro. Mục đích là có được hiểu biết bao quát, tổng thể về doanh nghiệp và các hoạt động của doanh nghiệp để định hướng trong việc phát hiện rủi ro.

+ Phân tích tài liệu: là việc phân tích các tài liệu liên quan đến doanh nghiệp bao gồm cả những tài liệu lưu hành nội bộ doanh nghiệp lẫn những tài liệu về doanh nghiệp do bên ngoài cung cấp. Ví dụ: phân tích các báo cáo tài chính, quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, các hợp đồng kinh tế, bảo hiểm doanh nghiệp đã tham gia, các báo cáo về tổn thất…

+ Phỏng vấn: nhiều thông tin không thể tìm thấy trong các văn bản, tài liệu mà chỉ có thể có được qua phỏng vấn các nhà quản lý hoặc nhân viên. Việc phỏng vấn nhằm làm rõ những thông tin trong các tài liệu hoặc bổ sung những thông tin còn thiếu. Các đối tượng thường được phỏng vấn bao gồm các nhà quản lý doanh nghiệp, giám đốc tài chính hoặc vị trí tương đương, cố vấn pháp luật của doanh


nghiệp, giám đốc nhân sự, bộ phận phụ trách mua bán hàng, nhân viên,… và cả bên ngoài như công ty tư vấn luật hoặc kiểm toán công ty.

+ Khảo sát, điều tra trực tiếp: việc điều tra trực tiếp tại hiện trường sẽ giúp cung cấp những thông tin nhiều khi rất có giá trị, giúp phát hiện ra những rủi ro mà trước đó có thể không phát hiện ra.

Có thể nói công tác nhận dạng và phân tích rủi ro là một công việc không bao giờ kết thúc bởi vì các rủi ro mới liên tục xuất hiện. Hơn nữa, không doanh nghiệp nào có thể chắc chắn rằng mình đã phát hiện được hết rủi ro. Để hỗ trợ cho công tác này, doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống thông tin hỗ trợ có khả năng cung cấp luồng thông tin liên tục về những thay đổi trong hoạt động của doanh nghiệp với bên ngoài. Hệ thống cũng phải đảm bảo đưa đến cho những bộ phận liên quan đến rủi ro những thông tin cần thiết để phòng tránh rủi ro. Hệ thống này thường bao gồm:

+ Hướng dẫn về chính sách quản lý rủi ro của doanh nghiệp: Hướng dẫn này bao gồm những thông tin về các hoạt động quản lý rủi ro mà doanh nghiệp đang theo đuổi.

+ Hệ thống các ghi chép về các hoạt động quản trị rủi ro của doanh nghiệp: bao gồm những thông tin về các tổn thất xảy ra cũng như những chi phí cho các hoạt động quản trị rủi ro. Những thông tin này đặc biệt có giá trị vì nó giúp hoàn thiện hơn hoạt động quản trị rủi ro.

+ Hệ thống thông tin nội bộ: bao gồm các thông tin về kế hoạch đầu tư, mua

sắm tài sản, sản phẩm mới… b. Đo lường rủi ro.

Sau khi đã nhận dạng được rủi ro, phân tích các nguyên nhân thì hoạt động tiếp theo của quá trình quản lý rủi ro là đo lường rủi ro. Việc đo lường rủi ro là đánh giá mức độ nghiêm trọng của rủi ro để đưa ra mức độ ưu tiên đối phó.

- Phân loại mức độ nghiêm trọng của rủi ro: mức độ nghiêm trọng, rủi ro thường được phân thành ba nhóm:


+ Nhóm nguy hiểm: bao gồm những rủi ro mà hậu quả của nó có thể dẫn sự

phá sản của doanh nghiệp.

+ Nhóm quan trọng: bao gồm những rủi ro mà hậu quả của nó không phải là nguyên nhân chủ yếu làm cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản nhưng sẽ phải vay mượn để tiếp tục hoạt động.

+ Nhóm không quan trọng: bao gồm những rủi ro mà doanh nghiệp có thể tự

khắc phục hậu quả mà không quá khó khăn về tài chính.

Để phân loại rủi ro như vậy, đòi hỏi phải đánh giá được mức độ nghiêm trọng của rủi ro cũng như khả năng chịu đựng của doanh nghiệp khi rủi ro xảy ra.

- Chỉ tiêu đánh giá mức độ nghiêm trọng (quy mô tổn thất) của rủi ro: các nhà quản lý thường sử dụng hai chỉ tiêu: mức độ tổn thất tối đa và khả năng xảy ra tổn thất.

+ Mức độ tổn thất tối đa mà rủi ro có thể gây ra cho doanh nghiệp.Ví dụ, đối với một dự án đầu tư ra nước ngoài, tổn thất tối đa mà doanh nghiệp có thể phải gánh chịu là toàn bộ số tiền bỏ ra để đầu tư vào dự án đó. Khi rủi ro xảy ra, nó không chỉ gây thiệt hại trực tiếp mà còn kéo theo nhiều thiệt hại liên quan, do vậy việc đánh giá thiệt hại do rủi ro gây ra đối với doanh nghiệp không chỉ bao gồm các thiệt hại trực tiếp mà phải bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp do rủi ro gây ra. Những thiệt hại gián tiếp này không chỉ bao gồm những thiệt hại xảy ra ngay khi đó mà cả những thiệt hại còn tiếp diễn sau này.

+ Khả năng xảy ra tổn thất. Chỉ tiêu này phản ánh tần suất xuất hiện của rủi ro, số lần xảy ra tổn thất hay khả năng xảy ra biến cố nguy hiểm đối với doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định (năm, quý, tháng…)

- Các phương pháp đo lường rủi ro: để đo lường rủi ro các doanh nghiệp có thể sử dụng kết hợp các phương pháp đo lường định lượng và các phương pháp đánh giá định tính.

+ Các phương pháp đo lường định lượng: Để đánh giá khả năng xảy ra tổn thất có thể được thực hiện thông qua các phân tích lượng hóa trên cơ sở lý thuyết xác suất. Ba biến số về rủi ro mà nhà quản trị thường tính toán phân phối xác suất là


số tổn thất mà doanh nghiệp gặp phải trong một khoảng thời gian nhất định, mức độ thiệt hại của từng tổn thất, và tổng giá trị tổn thất mà doanh nghiệp phải chịu trong một khoảng thời gian cho trước. Để xác định phân phối xác suất của những biến số này, nhà quản trị rủi ro thường sử dụng hai phương pháp sau:

Phương pháp thứ nhất: xây dựng các mô hình tính xác suất xảy ra tổn thất trên cơ sở các số liệu quá khứ về tổn thất đó. Mô hình nhị thức và mô hình Poisson hay được sử dụng để xác định phân phối xác suất của số rủi ro doanh nghiệp gặp phải, còn các phân phối logarit chuẩn, phân phối lũy thừa và phân phối Pareto hay được sử dụng để tính phân phối xác suất của mức độ thiệt hại của mỗi tổn thất. Phân phối xác suất của tổng giá trị các tổn thất sẽ xác định trên cơ sở kết hợp phân phối xác suất của số rủi ro doanh nghiệp gặp phải và phân phối xác suất của mức độ thiệt hại của mỗi tổn thất.

Phương pháp thứ hai: sử dụng mô hình giả lập để tích hợp cả những thay đổi của môi trường vào các phân phối xác suất cần xác định. Các mô hình được sử dụng chủ yếu trong phương pháp này là giả lập Monte Carlo, phân phối Gamma…

==> Phương pháp lường định lượng có ưu điểm lớn, chúng cung cấp những thông tin định lượng giúp các nhà quản trị dễ hình dung hơn về khả năng xảy ra và mức độ ảnh hưởng của các rủi ro. Nhưng, các phương pháp này cũng có các hạn chế như:

- Mô hình rất phức tạp và dựa trên nhiều giả định về các đối tượng đo lường.

- Yêu cầu một dữ liệu đủ lớn.

- Việc kiểm tra tính xác thực kết quả của một số mô hình chỉ được thực hiện

sau một vài năm.

- Mô hình rất nhạy cảm đối với sự biến đổi của môi trường kinh tế. Việc mô hình sử dụng nhiều giả định để tạo lập cơ sở dữ liệu khiến một sự thay đổi nhỏ trong môi trường kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các tiêu chí tạo lập cơ sở dữ liệu, làm thay đổi cơ sở dữ liệu và do đó làm thay đổi kết quả của mô hình.

Những hạn chế trên cho thấy việc áp dụng mô hình định lượng không

phải là công việc đơn giản mà yêu cầu một nguồn lực lớn từ việc chọn gói phần


mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu và liên tục chỉnh sửa các giả định để có thể liên tục cập nhật các kết quả đo lường.

+ Phương pháp đo lường định tính: là phương pháp dựa trên những đánh giá của các chuyên gia để từ đó xếp hạng các rủi ro và đưa ra một báo cáo tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng đối với những rủi ro khó đo lường.

Bảng 1.1 Khả năng đo lường của một số rủi ro


Rủi ro

Khả năng đo lường mức

độ nghiêm trọng

Khả năng đo lường tần

số

Rủi ro liên quan đến tổ

chức hoạt động

Thấp

Thấp

Rủi ro công nghệ

Cao

Cao

Rủi ro về nhân sự

Cao

Cao

Rủi ro do các yếu tố bên

ngoài khác gây nên

Cao

Cao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Ninh Bình - 3

(Nguồn: Credit Suisse Group 2000)

- Phương pháp đánh giá định tính giải quyết được hai vấn đề của phương pháp đo lường định lượng. Thứ nhất, phương pháp này đánh giá được các rủi ro khó đo lường được. Thứ hai, khi môi trường kinh doanh thay đổi, phương pháp này cho biết kết quả nhanh hơn mô hình định lượng vì khi đó mô hình định lượng phải được điều chỉnh rất nhiều bước mới có thể cập nhật được kết quả.

- Phương pháp đánh giá đơn giản nhất là xin ý kiến chuyên gia để xếp hạng rủi ro. Thông qua việc xếp hạng, các yếu tố định tính có thể được chuyển thành định lượng. Công việc đánh giá trải qua ba bước:

(1) Liệt kê và đánh giá định kỳ các rủi ro

(2) Chấm điểm rủi ro dựa trên các tiêu chí: mức độ nghiêm trọng, tần số phát

sinh, thời điểm có khả năng xảy ra phát sinh,…

(3) Thông qua việc chấm điểm, các chuyên gia sẽ tập hợp và đưa ra những tiêu chí để theo dõi sự biến đổi của rủi ro.


Bảng 1.2 Bảng xếp hạng tín dụng theo ý kiến chuyên gia.


MỨC XẾP

HẠNG


ĐẶC ĐIỂM


MỨC RỦI RO


AAA

(Đặc

biệt)

- Tình hình tài chính mạnh.

- Năng lực quản trị tốt.

- Hoạt động KD có hiệu quả cao .

- Có triển vọng phát triển lâu dài, thương hiệu có uy tín trên thương trường.

- Vững vàng trước các tác động của môi trường

kinh doanh.

- Có thiện chí, uy tín trong quan hệ với Ngân

hàng.


Rủi ro ở mức

thấp nhất


AA

(Rất tốt)

- Tình hình tài chính tốt.

- Có năng lực quản trị.

- Hoạt động kinh doanh hiệu quả và ổn định.

- Có triển vọng phát triển.

- Có thiện chí, uy tín trong quan hệ với Ngân

hàng.


Mức độ rủi ro

thấp

A

(Tốt)

- Tình hình tài chính tương đối tốt.

- Hoạt động kinh doanh hiệu quả.

- Có thiện chí và khả năng trả nợ đảm bảo.

Mức độ rủi ro ở mức

thấp

BBB

(Khá)

- Hoạt động kinh doanh hiệu quả.

- Có triển vọng phát triển nhưng có một số hạn

chế về tài chính và quản lý.

Rủi ro ở mức

trung bình

BB

(Trung bình khá)

- Hoạt động kinh doanh hiệu quả

- Có triển vọng phát triển nhưng có một số hạn

chế về tài chính và quản lý.


Trung bình

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/04/2023