Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Vận Tải Hành Khách Bằng Xe Buýt Tại Thành Phố Hà Nội


Ngày nay, Hà Nội có hệ thống taxi rộng khắp và hoạt động hiệu quả, sử dụng đồng hồ tính km và còn có một số dịch vụ taxi như xe tải lớn hoặc xe taxi cỡ nhỏ, phục vụ khoảng

57.000 hành khách/ngày.

Thời gian qua, trên địa bàn thành phố còn xuất hiện loại hình thuê xe công nghệ bao gồm xe hợp đồng dưới 9 chỗ hoặc xe máy sử dụng phần mềm hoạt động tương tự taxi, xe ôm. Quy mô thị trường ứng dụng gọi xe Việt Nam khoảng 500 triệu USD với tốc độ tăng bình quân hơn 40% mỗi năm. Đến năm 2025, dự báo thị trường này sẽ đạt ngưỡng 2 tỉ USD với tốc độ tăng 29%/năm. Các nền tảng gọi xe nổi bật và đang chiếm thị phần lớn bao gồm 3 cái tên Grab, Be và Go-Viet.

Thị trường gọi xe công nghệ hiện nay có thể xem là khá lộn xộn, không chỉ đơn thuần là xe công nghệ mà có cả chục ngàn taxi truyền thống cũng tham gia vào chạy xe công nghệ. Do đó, việc thống kê thị trường này có bao xe công nghệ là không dễ, số liệu một số hãng đưa ra có bao nhiêu xe cũng chưa có ai kiểm chứng. Ngay cả cơ quan chức năng cũng không biết chính xác từng hãng có bao nhiêu xe. Sự phát triển ồ ạt với số lượng lớn của các loại hình “thuê xe công nghệ” giá rẻ như Grab, GoViet đang tạo ra một thách thức không hề nhỏ đối với hệ thống VTHKCC của thành phố Hà Nội. Tại Hà Nội, trong nhiều năm, sản lượng vận tải từ xe buýt trồi sụt, liên tục giảm. Đến năm 2018 mới bắt đầu tăng nhẹ. Theo Sở GTVT Hà Nội, gần đây, Hà Nội mở thêm nhiều tuyến buýt kết nối các huyện ngoại thành nên được người dân lựa chọn nhiều hơn, sản lượng xe buýt mới tăng dần. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của loại hình xe hợp đồng, nhất là xe ôm công nghệ cũng phần nào ảnh hưởng đến tăng trưởng của vận tải khách công cộng. Về lâu dài, phương tiện này đang ảnh hưởng rất lớn quy hoạch và giao thông đô thị. Ngoài số lượng xe gắn máy lớn, một lượng xe ôm công nghệ có thể làm tăng lượng xe cá nhân gây nên tình trạng ùn tắc, tai nạn giao thông. Đây là loại hình không được khuyến khích trong các đô thị lớn như TP Hà Nội. Để quản lý loại hình xe ôm công nghệ, sắp tới thành phố cần đánh thuế thu nhập cá nhân, thuế môi trường, thuế ùn tắc giao thông đối với loại hình xe ôm công nghệ. Như vậy giá dịch vụ sẽ bị đẩy cao lên không còn thấp như hiện nay, từ đó số lượng xe Grabbike sẽ giảm.

4.1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển vận tải hành khách bằng xe buýt tại Thành phố Hà Nội

Như đã trình bày ở trên, hoạt động theo phương thức đội xe hiện nay bao gồm một phương thức, đó là hệ thống xe buýt được tổ chức tốt do thành phố lập kế hoạch và điều hành. Quá trình phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt ở thành phố Hà Nội có thể khái quát theo các giai đoạn:


- Giai đoạn khởi đầu: Khởi đầu là Công ty Thổ địa Bắc Kỳ do Pháp thành lập năm 1899 để xây dựng và vận hành những tuyến xe điện trong thành phố (Tramway). Mạng lưới Tramway của Hà Nội đã phát triển tới 5 tuyến với tổng chiều dài 32km và các trục đường xe điện đã trở thành các trục phát triển đô thị của Hà Nội. Đến năm 1988, các tuyến Tramway bị dỡ bỏ, thay vào đó là chạy thử Trolleybus trên hai tuyến: Bờ Hồ

- Hà Đông; Bờ Hồ - Chợ Mơ và đến cuối năm 1993 cũng ngừng hoạt động. Từ những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay, VTHK bằng xe buýt và xe taxi là các dịch vụ VTHKCC chủ đạo của thành phố.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.

- Giai đoạn 1960-1986: Tổ chức quản lý khai thác theo cơ chế bao cấp hoàn toàn của Nhà nước với số lượng tuyến, phương tiện hạn chế, đáp ứng khoảng hơn 40% nhu cầu đi lại của người dân thành phố;

- Giai đoạn 1986-1992: Hoạt động VTHKCC bằng xe buýt chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế, dần xóa bỏ chế độ bao cấp. Sự phát triển nhanh của phương tiện cá nhân (xe máy) làm thay đổi thói quen đi lại dẫn đến nhu cầu sử dụng xe buýt sụt giảm nhanh chóng. Khối lượng vận chuyển giảm từ 50 triệu hành khách xuống dưới 3 triệu hành khách vào năm 1992.

Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt tại các đô thị ở Việt Nam nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội - 13

- Giai đoạn 1992 – 2000: Thành phố Hà Nội tiến hành tổ chức lại hoạt động vận tải hành khách bằng cách tách riêng xe buýt nội đô và xe buýt liên tỉnh, đồng thời áp dụng chính sách trợ giá cho xe buýt nội đô. Với chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vận tải bằng xe buýt. Năm 1998, có 3 doanh nghiệp gồm Công ty xe buýt Hà Nội, Xí nghiệp xe buýt 10/10, Công ty xe điện Hà Nội cùng tham gia cung cấp dịch vụ VTHKCC cho người dân thành phố. Đây là giai đoạn thành phố tìm kiếm mô hình phát triển VTHKCC bằng xe buýt theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hệ thống dịch vụ VTHKCC bằng xe vẫn ở quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ và tăng nhanh của phương tiện cá nhân.

- Giai đoạn từ 2001 - 2010: Đây được coi là giai đoạn đổi mới toàn diện, đổi mới quản lý, tái cấu trúc VTHKCC, hoạt động VTHKCC bằng xe buýt đã có sự phát triển về lượng và chất. Đặc biệt là sự liên tục đổi mới chính sách đầu tư và quản lý hoạt động vận tải đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho hành khách, an toàn giao thông, từng bước giải quyết triệt để ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường. Với sự quan tâm đầu tư của Thành phố để tạo “cú hích” ban đầu, Tổng công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) tập trung đổi mới toàn diện hoạt động buýt theo nguyên tắc “cung cấp dẫn đầu”: Hợp lý hóa luồng tuyến và nối mạng; phát hành vé tháng liên thông; đổi


mới phương tiện;áp dụng quản lý điều hành tập trung và nâng cao chất lượng dịch vụ với tiêu chí “Đi xe buýt nhanh hơn xe đạp, rẻ hơn xe máy”. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và được sự ủng hộ của người dân, Hà Nội đã thành công và mô hình phát triển xe buýt của Hà Nội được nhân rộng ở nhiều thành phố trên cả nước.

- Giai đoạn từ 2011 - đến nay: Trong giai đoạn này, số lượng tuyến và phương tiện vẫn tăng nhưng sản lượng vận chuyển gần như bão hòa. Đặc biệt, giai đoạn (2014 - 2016) số người sử dụng xe buýt có xu hướng giảm (Trên các tuyến trục chính và tuyến truyền thống cũng chỉ đạt 90 - 92% so với cùng kỳ các năm trước). Năm 2015, Hà Nội có 72 tuyến buýt trợ giá (tăng 1,1 lần), tổng số phương tiện là 1208 xe (tăng 1,15 lần) tuy nhiên sản lượng năm 2015 sụt giảm so với năm 2014 và so với năm 2010 chỉ tăng 1,02 lần; 6 tháng đầu năm 2016 sản lượng hành khách chỉ đạt 90% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2019, Hà Nội đã có thêm 14 tuyến buýt mới vào hoạt động nâng tổng số tuyến toàn mạng lên 124 tuyến, phủ khắp 30 quận, huyện, thị xã và phục vụ đến 453/584 số xã, phường, thị trấn, xóa vùng trắng xe buýt; tỷ lệ tăng trưởng chưa đến 1% so với năm 2018; xe buýt có tỷ lệ chậm chuyến từ 10 – 20 phút/lượt chiếm tới 50 – 60/ tổng số chuyến, xu thế xe buýt di chuyển đã giảm xuống dưới 20km/giờ (năm 2013 là 23km/giờ) dẫn đến biểu đồ chạy xe bị phá vỡ, thời gian chuyến đi kéo dài, khiến sự hấp dẫn bị giảm đi rò rệt.

4.1.2.3. Công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại Hà Nội

- Cơ quan quản lí Nhà nước về vận tải HKCC bằng xe buýt tại Hà Nội:

+ UBND Thành phố Hà Nội: Phối hợp với Bộ GTVT và các Bộ ngành liên quan (Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính), Ủy ban nhân dân thành phố (UBND) đóng vai trò quản lý nhà nước về VTHKCC trên địa bàn thành phố, có trách nhiệm quy hoạch chiến lược phát triển VTHKCC bằng xe buýt; ban hành các quyết định về đầu tư phát triển KCHT, quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, quy định về quản lý tài chính đối với hoạt động VTHKCC bằng xe buýt.

+ Sở GTVT: Sở GTVT thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn, giúp cho UBND thành phố quản lý GTĐT nói chung và quản lý VTHKCC bằng xe buýt nói riêng. Sở GTVT thành phố có nhiệm vụ quản lý hoạt động VTHKCC trên địa bàn thành phố theo các lĩnh vực vận tải đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt đô thị. Trong đó, các nhiệm vụ trọng tâm gồm: quản lý KCHT, quản lý điều hành vận tải, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, quản lý khai thác thông tin và ứng dụng khoa học kỹ thuật, quản lý tài chính.


Trong công tác quản lý và điều hành hoạt động mạng lưới VTHKCC bằng xe buýt, Hà Nội có thành lập đơn vị chuyên trách trực thuộc Sở GTVT là Trung tâm Quản lý và Điều hành giao thông đô thị Hà Nội (TRAMOC) với chức năng: xây dựng quy hoạch, chiến lược, kế hoạch phát triển VTHKCC, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; quản lý và điều hành VTHKCC của thành phố; quản lý cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ VTHKCC; phát hành và quản lý vé xe buýt; tổ chức khai thác nguồn thu từ quảng cáo và dịch vụ liên quan đến VTHKCC; quản lý tài chính và tài sản được giao, tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật, tổ chức thu các loại phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.

+ Doanh nghiệp vận tải: Các doanh nghiệp khai thác vận tải thực hiện ký hợp đồng kinh doanh VTHKCC với chính quyền thành phố thông qua hình thức nhà nước đặt hàng, hoặc đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Trách nhiệm của doanh nghiệp là quản lý và tổ chức khai thác phương tiện, quản lý nhân lực và thực hiện cung cấp dịch vụ VTHKCC cho hành khách theo quy định.

Theo mô hình phân cấp quản lý VTHKCC bằng xe buýt, hành khách là người thụ hưởng dịch vụ thông qua kênh giao tiếp dịch vụ với các doanh nghiệp khai thác vận tải. Quá trình tương tác dịch vụ giữa doanh nghiệp khai thác VTHKCC với hành khách thực hiện theo quy định pháp luật của Nhà nước và chính quyền thành phố. Cho nên, chất lượng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt phụ thuộc vào cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước, nỗ lực của doanh nghiệp và sự hợp tác, tuân thủ của hành khách.

- Các văn bản về phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt của Thành phố Hà Nội ban hành

Ngoài các quy định của luật giao thông đường bộ và các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động vận tải đường bộ, Thành phố Hà Nội ban hành một số Quyết Định căn cứ trên các văn bản trên nhằm phù hợp với điều kiện kinh doanh VTHKCC bằng xe buýt tại Thành phố Hà Nội.

+ Chương trình số 06-Ctr/TU ngày 29/6/2016 của Thành ủy Hà Nội về Phát triển đồng bộ, hiện đại hóa từng bước kết cấu hạ tầng đô thị, tăng cường quản lý trật tự xây dựng, đất đai, môi trường, xây dựng đô thị văn minh, hiện đại giai đoạn 2016-2020.

+ Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐND ngày 4-7-2017 của HĐND thành phố về việc thông qua Đề án “Tăng cường quản lý phương tiện giao thông đường bộ nhằm giảm ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn 2030”.


+ Nghị quyết số 07/2019/NQ-HĐND ngày 10/7/2017 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội về việc ưu tiên phát triển hệ thống VTHKCC khối lượng lớn; khuyến khích đầu tư xây dựng, khai thác bến xe, bãi đỗ xe ô tô và các phương tiện cơ giới khác; áp dụng công nghệ cao trong quản lý điều hành hệ thống giao thông vận tải.

+ Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho việc trợ giá cho hoạt động VTHKCC bằng xe buýt, Hà Nội đã xây dựng và ban hành định mức kinh tế kỹ thuật (Quyết định số 1721/2014).

+ Chỉ thị số 10/CT-UBND ngày 04/6/2020 của Chủ tịch UBND Thành phố về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.

+ Thông báo số 1135/TB-UBND ngày 27/9/2019 của Ủy ban nhân dân Thành phố về việc Kết luận của tập thể UBND Thành phố xem xét về việc ban hành Kế hoạch phát triển các phương tiện vận tải công cộng trên địa bàn Thành phố và Thông báo số 352/TB-UBND ngày 08/9/2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố về Kết luận của tập thể Ủy ban nhân dân Thành phố tại cuộc họp xem xét ban hành Kế hoạch phát triển phương tiện VTHKCC trên địa bàn Thành phố, giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030.

+ Kế hoạch số 201/KH-UBND về phát triển phương tiện VTHKCC trên địa bàn thành phố, giai đoạn từ năm 2021 đến 2030.

Và một số quy định khác.

- Các nội dung quản lý:

+ Về quản lý chất lượng kết cấu hạ tầng giao thông: Hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ vận tải hành khách bằng xe buýt gồm: đường dành riêng cho xe buýt, điểm đầu, điểm cuối, điểm dừng, biển báo, nhà chờ, điểm trung chuyển và bãi đỗ xe.

- Về công tác quy hoạch và hoạch định chiến lược phát triển KCHT, UBND thành phố căn cứ vào chiến lược phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng và quy hoạch liên quan để lập quy hoạch giao thông đô thị trên cơ sở ý kiến của Bộ Xây dựng và Bộ GTVT.

- Về quản lý, bảo trì hệ thống KCHT, Sở GTVT thành phồ phối hợp với UBND các cấp và các đơn vị quản lý liên quan thực hiện nhiệm vụ tổ chức quản lý đảm bảo thực hiện đúng quy hoạch, phục vụ khai thác vận tải nói chung và VTHKCC bằng xe buýt nói riêng.

- Các đơn vị quản lý thi công, sửa chữa công trình giao thông thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Sở GTVT trên cơ sở tuân thủ quy định của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị và các quy chuẩn, tiêu chuẩn liên quan.


+ Về quản lý chất lượng phương tiện vận tải: Trên cơ sở tuân thủ Quy chuẩn quốc gia về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, điều kiện khai thác của từng tuyến trên địa bàn thành phố, Sở GTVT đặt ra các yêu cầu về chất lượng kỹ thuật và thiết bị phục vụ hành khách trên xe. Các doanh nghiệp khai thác vận tải có trách nhiệm quản lý đầu tư, kiểm soát chất lượng phương tiện đáp ứng yêu cầu đặt ra của Sở GTVT.

Theo quy định, doanh nghiệp kinh doanh VTHKCC bằng xe buýt phải đảm bảo số ngày xe tốt tối thiểu bằng 110% số ngày xe vận doanh; tổ chức quản lý quá trình vận hành và bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện. Trong đó, nhấn mạnh vấn đề sử dụng CNTT để phục vụ hiệu quả công tác quản lý kỹ thuật và chất lượng phương tiện.

+ Về quản lý điểu hành hoạt động vận tải: Quá trình vận hành phương tiện phản ánh các tiêu chí chất lượng về mức độ an toàn, tính nhanh chóng, tin cậy của các hành trình chạy xe và đảm bảo sự thuận tiện cho hành khách sử dụng phương tiện đi lại. Hoạt động điều hành vận tải thực hiện theo chu trình liên tục điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện khai thác của từng tuyến.

Trên cơ sở phương án mở tuyến, Sở GTVT phối hợp với các doanh nghiệp khai thác để xây dựng biểu đồ chạy xe, lựa chọn phương tiện phù hợp với điều kiện khai thác trên từng tuyến. Sau đó, các doanh nghiệp khai thác vận tải có trách nhiệm áp dụng các biện pháp tổ chức khai thác phương tiện và thực hiện đúng biểu đồ chạy xe theo phương án đã ký kết trong hợp đồng. Đồng thời, doanh nghiệp vận tải phải lập kế hoạch đảm bảo an toàn giao thông, thực hiện việc kiểm tra, giám sát, thống kê, phân tích và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch vận tải làm căn cứ điều chỉnh quá trình vận hành (điều độ), thay đổi phương tiện và điều chỉnh biểu đồ chạy xe cho phù hợp.

Hoạt động quản lý điều hành vận tải xe buýt ở Hà Nội thuộc trách nhiệm của Trung tâm Điều hành xe buýt (trực thuộc Tổng Công ty vận tải Hà Nội). Về giải pháp, Tổng Công ty vận tải Hà Nội đã triển khai mạnh mẽ việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình theo công nghệ GPS nhằm nâng cao hiệu quả giám sát và điều hành vận tải (thông qua kênh giao tiếp theo thời gian thực), đồng thời tích hợp nhiều tiện tích nhằm nâng cao chất lượng phục vụ hành khách. Nhưng do chưa có đường dành riêng cho xe buýt nên quá trình vận hành của phương tiện phụ thuộc rất lớn vào năng lực điều khiển và xử lý tình huống trên đường của nhân viên lái xe. Đặc biệt là mật độ phương tiện tăng cao trong giờ cao điểm với số lượng xe máy và ô tô con tăng mạnh trong vài năm gần đây. Cho nên, mức độ đáp ứng yêu cầu về an toàn, nhanh chóng và tin cậy của hành trình chạy xe chịu tác động rất lớn của các phương tiện tham gia giao thông khác.


Với giải pháp lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (công nghệ GPS), hoạt động quản lý điều hành vận tải đã giải quyết cơ bản vấn đề đảm bảo an toàn, nhanh chóng và tin cậy cho quá trình vận hành của từng hành trình chạy xe buýt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, trong điều kiện hạn chế về kết cấu hạ tầng, sự gia tăng mạnh mẽ phương tiện cá nhân (xe máy, ô tô con) đã làm gia tăng ùn tắc giao thông, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng vận hành của phương tiện giao thông nói chung và xe buýt nói riêng. Đây là một trong những thách thức lớn đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa quy hoạch phát triển đô thị và quản lý giao thông của thành phố Hà Nội nói riêng, các thành phố của Việt Nam nói chung.

+ Quản lý công tác phục vụ hành khách: Trong VTHKCC bằng xe buýt, công tác phục vụ hành khách chủ yếu là các hoạt động giao tiếp giữa nhân viên phục vụ trên xe với hành khách. Chất lượng phục vụ hành khách như thế nào phụ thuộc năng lực nghiệp vụ, trạng thái tâm lý và thái độ trong giao tiếp của nhân viên phục vụ với hành khách.

Về quản lý chất lượng phục vụ hành khách, hệ thống các văn bản có quy định tác phong làm việc, trách nhiệm của lái xe, nhân viên phục vụ trên xe buýt và quy định trách nhiệm, quyền hạn của hành khách trong quá trình đi lại bằng xe buýt.

Nhằm nâng cao chất lượng phục vụ hành khách và văn minh của dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt, Tổng Công ty vận tải Hà Nội đã xây dựng các Tiêu chí phục vụ (quy định đối với nhân viên) và Nội quy đi xe (đối với hành khách). Các tiêu chí phục vụ và Nội quy đi xe đã có tác động tích cực đến hành vi ứng xử và giao tiếp dịch vụ. Theo đánh giá của xã hội, phong cách phục vụ của nhân viên và ý thức văn hóa, văn minh của hành khách đã có những chuyển biến tích cực, hình thành văn hóa xe buýt tại Hà Nội. Tuy nhiên, chưa xây dựng chỉ tiêu đánh giá chất lượng nhằm tạo hệ thống đánh giá chất lượng toàn diện trong hệ thống dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt.

Về cung cấp thông tin cho hành khách, Tổng Công ty Vận tải Hà Nội đã lập website www.timbus.vn nhằm cung cấp tiện ích tìm kiếm và xác định chính xác các tuyến xe buýt cần đi. Với tiện ích này, người dân thành phố có thể sử dụng máy tính hoặc điện thoại thông minh để dễ dàng tìm kiếm thông tin về tuyến xe buýt để lựa chọn cho chuyến đi. Đây là giải pháp hiệu quả nâng cao chất lượng phục vụ hành khách đi xe buýt trên địa bàn thành phố.

+ Về quản lý công tác bán vé hành khách: Công tác bán vé của các tổ chức kinh doanh vận tải và kinh doanh dịch vụ đại lý bán vé chịu sự quản lý chuyên ngành của Sở GTVT. Các đại lý bán vé phải tuân thủ quy định của pháp luật và Sở GTVT về việc đăng ký kinh doanh và tổ chức bán vé cho hành khách. Trong đó, các doanh nghiệp kinh


doanh vận tải và dịch vụ đại lý bán vé không được tổ chức đón, trả khách tại địa điểm nơi đặt đại lý bán vé, trừ trường hợp trùng với điểm cho phép xe dừng đón trả khách do Sở Giao thông vận tải địa phương quy định.

Cơ cấu vé và giá vé hiện đang được áp dụng bao gồm vé tháng (đơn tuyến, liên tuyến) và vé lượt (theo quãng đường và toàn tuyến). Về hình thức, các loại vé sử dụng hiện nay gồm: vé giấy và áp dụng thí điểm thẻ SMART CARD. Trong đó, vé lượt tính theo giá vé đồng hạng trên tuyến và theo lượt đi của hành khách (không tính theo quãng đường hành khách đã đi).

Vé tháng áp dụng cho đối tượng ưu tiên, gồm: học sinh phổ thông, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề (không kể hệ đào tạo vừa học vừa làm), công nhân các khu công nghiệp và người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên. Ngoài ra, chính sách miễn giảm giá vé cho thương binh, bệnh binh và những người tàn tật theo quy định của pháp luật, những đối tượng được cấp vé tháng miễn phí khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt.

+ Công tác kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ: Công tác kiểm tra giám sát chất lượng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt do Trung tâm quản lý và điều hành GTĐT (TRAMOC), Trung tâm kiểm tra – giám sát của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội thực hiện. Trong đó, Trung tâm quản lý và điều hành GTĐT thực hiện chức năng quản lý chất lượng phục vụ thông qua công tác kiểm tra giám sát về việc tuân thủ biểu đồ chạy xe, chấp hành quy định về an toàn giao thông của lái xe; quy định về công tác phục vụ hành khách (bán vé, phục vụ hành khách trên xe); phối hợp với lực lượng công an các phường sở tại nhằm đảm bảo an ninh trật tự tại các bến xe, điểm trung chuyển. Đặc biệt là việc sử dụng hệ thống camera giám sát và thiết bị giám sát hành trình (GPS) đã hỗ trợ đắc lực trong công tác kiểm tra, giám sát mức độ tuân thủ biểu đồ chạy xe và quy định về an toàn giao thông của lái xe.

Bên cạnh việc giám sát của lực lượng chức năng thuộc Trung tâm quản lý và điều hành GTĐT, Tổng Công ty vận tải Hà Nội đã thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát nhằm hạn chế và xử lý kịp thời lỗi vi phạm của nhân viên lái xe, phục vụ trên xe, giải quyết triệt để tệ nạn xã hội trên xe buýt.

Tóm lại, với sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung tâm quản lý và điều hành GTĐT, Trung tâm kiểm tra – giám sát của Tổng Công ty vận tải Hà Nội cùng với các đơn vị chức năng của thành phố, chất lượng phục vụ hành khách ngày càng được nâng lên và được xã hội đánh giá cao. Tuy nhiên, chưa hình thành hệ thống đánh giá chất lượng đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các bên tham gia, dẫn đến việc kiểm tra, giám sát mới

Xem tất cả 190 trang.

Ngày đăng: 10/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí