người trong lao động và phẩm chất của người lãnh đạo” trong đó chỉ ra các PC của nhà lãnh đạo các doanh nghiệp phải vượt trội hơn người bình thường trong quản lý, lãnh đạo; J.F. Meyer (2011) trong bài báo “Phẩm chất của một nhà kinh doanh thành công” cho rằng nhà kinh doanh thành công thường có các phẩm chất đặc trưng như: có đầu óc nhạy bén, sắc sảo; có đầu óc mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro; tự tin vào năng lực của bản thân; đạo đức (chữ tín, lòng trung thực, lòng tin); không cam chịu số phận, không bằng lòng với hiện tại, chấp nhận thách thức với tương lai; thích sự cạnh tranh (dẫn theo L.Mikhai) [47, tr.48].
Về lĩnh vực lãnh đạo/quản lý, A.G. Côvaliôv (1976) cho rằng, đánh giá nhân cách người lãnh đạo cần đặc biệt chú ý các PC như: PC đạo đức - chính trị; PC công tác, hiệu quả của hoạt động, trình độ đào tạo [11, tr.51]. Tác giả R.M. Stogdill (1976) đã nghiên cứu sâu về những PC của người lãnh đạo và xác định người lãnh đạo cần 5 đặc điểm về thể chất (chiều cao, ngoại hình, sức khỏe,…), 4 đặc điểm về tri thức, 16 đặc điểm về nhân cách, 9 đặc điểm về xã hội và 6 đặc điểm tính cách,… Ông cho rằng, từng đặc điểm riêng lẻ có thể không có ý nghĩa, nhưng một nhóm đặc điểm thì liên quan rất chặt chẽ với sự thành công [96, tr.62]. Như vậy, tác giả coi PC của người lãnh đạo là bao gồm cả mặt thể chất, vóc dáng ngoại hình đến nhân cách – tâm lý,… Tác giả
V.M. Sêpen (1980) trong tác phẩm “Tâm lý học trong quản lý sản xuất” đã nêu ra các PC của người quản lý/ lãnh đạo gồm: PC chính trị, đạo đức; PC tổ chức, PC nghề nghiệp; PC tâm - sinh lý [69, tr.43].
V.N. Lêbêđév (1982) trong giáo trình tâm lý học kinh doanh đã đề cập PC nhà quản lý trong kinh doanh, đó là: Tính độc lập, tự chủ; năng động, nhạy bén; làm việc có mục đích, kế hoạch; có ý chí vượt khó; dũng cảm, dám mạo hiểm, chấp nhận rủi ro; trung thực; có thiện chí, tôn trọng con người; cần cù chịu khó bền bỉ; tiết kiệm; biết giúp đỡ lẫn nhau; sẵn sàng hợp tác; có ý thức trách nhiệm; luôn giữ vững nguyên tắc quản lý; linh hoạt, tháo vát, sáng tạo; có lòng tin trong kinh doanh [20, tr.47].
Gaston Courtois (1990) đã chỉ ra rằng người lãnh đạo/ quản lý cần có 17 PC như: trí tuệ năng động, khả năng quan sát, lòng nhiệt tình, tính quyết đoán, tính trung thực, lòng nhân ái với mọi người, sự kiên nhẫn,… S. Ghoshal, C.A. Bartlett (1994), trong cuốn sách “8 phẩm chất của nhà quản lý hiện đại” cho rằng nhà quản lý hiện đại cần có những PC như: có tầm nhìn xa trông rộng; dám nhận trách nhiệm, đương
đầu với những thử thách, chấp nhận thay đổi; sự tinh tế, khéo léo, linh hoạt trong giao tiếp; thích nghi nhanh với các thay đổi; tinh thần lạc quan, có cái nhìn tích cực với công việc; tư duy sáng tạo [2, tr.34].
Về lĩnh vực y học, M.A. Simpson (1972) cho rằng sinh viên ngành y cần có một số PC như: trí tuệ, ham nghiên cứu khoa học, có sức khỏe, quan tâm đến mọi người, khách quan, thông cảm với mọi người, ngoại hình dễ chịu, thích ứng tốt, bình tĩnh, thấu hiểu ẩn ý người khác [56, tr.27]. Ở đây tác giả cũng quan niệm PC là bao gồm cả đặc điểm thể chất, ngoại hình, tâm lý,… Tác giả N.Đ. Lacoxina và G.C. Usacov (1984) yêu cầu muốn hành nghề bác sĩ cần có các PC như: óc quan sát, khiêm tốn, trung thực, vô tư, quên mình, vị tha, đạo đức cao cả, uy tín. N.M. Xcachcov chỉ ra rằng một bác sĩ quân y khi ra trường cần có các PC như: hiểu biết nhiều, rộng; có kiến thức vững chắc về tâm - sinh lí và dự phòng bệnh tâm thần; phải nắm được những phương pháp và cách thức làm việc với con người; yêu nghề y và trung thành với nghề nghiệp [31, tr.29]. J.D. Cue (1985) cho rằng bác sỹ lâm sàng phải có 3 PC quan trọng nhất là: Sự chín chắn, cẩn thận; Hiểu biết xã hội, năng lực nghề nghiệp và Tự chủ. Theo K. Benyamini và các cộng sự (1987), cho rằng bác sĩ lâm sàng cần phải có các PC: sẵn sàng giúp đỡ và hợp tác với đồng nghiệp, có quan hệ tốt với bệnh nhân, siêng năng, óc sáng kiến và độc lập, có kỷ luật, yêu nghề, khiêm tốn, tin cậy, có tinh thần trách nhiệm, mềm dẻo, tỉ mỉ và sâu sắc (dẫn theo Nguyễn Sinh Phúc) [57, tr.37]. J.T. Sulval (1994), đã khắc họa mô hình nhân cách bác sỹ với 15 PC cơ bản: yêu thương bệnh nhân; có tinh thần trách nhiệm; hết lòng phục vụ bệnh nhân; trung thực; khéo léo, tinh tế khi giao tiếp với bệnh nhân. M.X. Lebeđinxki và V.N. Myaxishev (1996) khi nghiên cứu tâm lý người thầy thuốc Xã hội chủ nghĩa đã đưa ra các tiêu chuẩn về PCTL của người thầy thuốc, đó là: ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ đối với người bệnh; cởi mở khi tiếp xúc; biết tự kiềm chế một cách hợp lý giữa mềm mỏng và kiên quyết; kết hợp quan sát và quyết đoán. Các tác giả cũng đưa ra một một số PC bác sĩ cần phải có như: tính tổ chức; trật tự, ngăn nắp, tổ chức, văn hóa chung và văn hóa nghề nghiệp.
Về lĩnh vực giáo dục, dạy học những nghiên cứu của tác giả D.F. Xamuilenco (1961) nhấn mạnh người giáo viên đề cao PC như: tính công tâm, tính yêu cầu cao, nghiêm nghị, thái độ như nhau với tất cả học sinh (dẫn theo Lê Anh Chiến, [8, tr.28]).
Có thể bạn quan tâm!
- Những phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch - 1
- Những phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch - 2
- Những Nghiên Cứu Về Phẩm Chất Tâm Lý Của Hướng Dẫn Viên Du Lịch
- Lí Luận Về Hướng Dẫn Viên Du Lịch
- Yêu Cầu Hoạt Động Hướng Dẫn Của Hướng Dẫn Viên Du Lịch
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
N.V. Cuzmina (1967), V.A. Xlatvenin, coi các chỉ số tâm lý của sự hình thành nghề chính là sự thể hiện mô hình nhân cách của người giáo viên như: những đặc tính và biểu hiện về mặt xu hướng tư tưởng, xu hướng nghề và nhận thức nghề; những yêu cầu cần thiết để hình thành những xu hướng đó trong quá trình đào tạo; khối lượng và thành phần của công tác đào tạo chuyên về nghề; nội dung và phương pháp đào tạo về nghiệp vụ [32, tr.40]. E.A. Climov đã chỉ ra PC nhân cách cơ bản của giáo viên gồm: PC tư tưởng, đạo đức; PC ý chí; PC năng lực (khả năng sử dụng ngôn ngữ, khả năng hiểu tâm lý học sinh, khả năng phán đoán, khả năng tổ chức, khả năng tư duy nhanh nhạy) [10, tr.51]. Tác giả N.V. Cudomina bổ sung thêm PC người giáo viên cần có là thế giới quan duy vật biện chứng, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa, đạo đức nghề nghiệp, tình cảm với hoạt động nghề nghiệp.
Ph.N. Gônôbôlin (1976, 1979) trong cuốn sách “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên” có đề cập các PCTL phù hợp với công việc giảng dạy như: Đạo đức, chí hướng, hứng thú, năng lực, quá trình nhận thức, hoạt động trí tuệ, tình cảm trong lao động và ý chí [22, tr.15]. Đáng chú ý, khi nêu lên những PC của người giáo viên, các tác nói trên chủ yếu tập trung vào PC tâm lý - nhân cách.
Về lĩnh vực tư pháp, một số tác giả như A.G. Côvaliôv (1968), A.V. Đulôv (1975), M.I. Enhikiev (1996), I.V. Chupharôpxki (1997) đã nghiên cứu về PCTL trong hoạt động tư pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm và giáo dục cải tạo phạm nhân. Tác giả A.G. Côvaliôv (1968) nêu ra PC nhà quản giáo cần có là: tư tưởng chính trị, chủ nghĩa nhân văn đối với con người, thái độ nhân văn với phạm nhân; ý chí cứng rắn; sự tế nhị, khéo léo đối xử, năng lực sư phạm [11, tr.53]. A.V. Đulôv (1975) đã nghiên cứu, nêu ra các tiêu chuẩn về PCTL của điều tra viên, đó là: tư tưởng vững vàng, đạo đức tốt; khả năng tư duy tốt; tính kiên định; tính cương quyết; tính kiềm chế. I.V. Chupharôpxki (1997) đã đưa ra PC của thẩm phán, đó là: tinh thần trách nhiệm cao; công bằng, vô tư; nhạy cảm; khả năng hiểu rõ con người; tính tự chủ; tính điềm đạm [103, tr.49].
Về lĩnh vực hoạt động thiết kế một số tác giả của trường đại học tổng hợp Lêningrat đã đưa ra phương án thử nghiệm 109 yêu cầu PC nhân cách người kỹ sư gồm: PC biểu hiện thái độ với công việc: yêu lao động, thái độ quan tâm đến công việc, sáng tạo, ham học hỏi, tìm tòi cái mới; PC đặc trưng cho phong cách hành vi:
tính độc lập, tính chấp hành, tính năng động; PC trí tuệ: tính mềm dẻo, tính phê phán, độ sâu, bề rộng, khái quát; PC đặc trưng cho thái độ đối với con người: tính trung thực, thẳng thắn, độ lượng; PC đặc trưng đối với bản thân: khiêm tốn, tự tin, tự hoàn thiện, hòa đồng (dẫn theo Lê Thị Phương Anh [2, tr.31]).
Về lĩnh vực quân sự, vấn đề PCTL của quân nhân cũng được chú trọng.
M.V. Phrunde đã nhấn mạnh những PC cần có của người cán bộ hải quân đó là: Tinh thần trách nhiệm; tuân thủ pháp luật; nhiệt tình, tận tụy, khách quan; tích cực cứu người, tận tình, nhanh nhẹn, linh hoạt; lịch sự, nhã nhặn, đúng mực trong giao tiếp ứng xử, đạo đức, ý chí, tác phong (dẫn theo Lê Anh Chiến, [8, tr.34]). V.I. Evđôkimôp cho rằng nghề lái máy bay cần có PC phù hợp như tính kỷ luật, nắm bắt nhanh kỹ thuật mới, thông thạo tiếng nga, khả năng chịu áp lực tốt, hợp đồng chiến đấu nhuần nhuyễn, khả năng tri giác không gian, tri giác mùi vị, quan sát nhạy bén và xư lý nhanh các tình huống. V.A. Egorốp (1983) trong cuốn sách “Đại cương tâm lý học kĩ thuật quân sự” cho rằng một trắc thủ cần có một số PCTL như chú ý, trí nhớ, đặc điểm quá trình xử lý thông tin, độ tin cậy,…[104, tr.72].
Tóm lại, từ quá trình phân công lao động xã hội, các nhà khoa học đã nhận ra có sự khác biệt cá nhân trong các lĩnh vực hoạt động chuyên môn nghề nghiệp. Từ đó nảy sinh nhu cầu nghiên cứu những đặc điểm cá nhân đáp ứng yêu cầu của các lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp, chuyên môn khác nhau. Các nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài cho thấy trong mỗi lĩnh vực hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp đều có đặc thù riêng. Xuất phát từ những đặc điểm hoạt động, từ yêu cầu của công việc, nghề nghiệp, đòi hỏi mỗi người hành nghề phải có PCTL để đáp ứng yêu cầu của nghề. Đồng thời chính trong hoạt động lại là điều kiện để hình thành và phát triển những PCTL mà hoạt động đó đòi hỏi. Tuy nhiên, phần lớn các tác giả chỉ nêu ra những PCTL cần thiết cho từng lĩnh vực hoạt động chuyên môn, còn ít đi sâu vào cơ sở lý luận của việc đề xuất và xác định các PCTL đó. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về PCTL trong hoạt động nghề nghiệp đã cung cấp những cơ sở quan trọng giúp chúng tôi định hướng trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án này.
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước về phẩm chất tâm lý đáp ứng yêu cầu của hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp.
Ở nước ta, Tâm lý học quan tâm đến lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp khá muộn và còn ít công trình nghiên cứu.
Tác giả Trần Trọng Thủy (1997) đã đề cập nhiều đến việc xây dựng họa đồ nghề nghiệp cho các nghề (Professiorgramme), rất chú trọng mô tả những đặc điểm tâm lý của nghề; trong đó phần rất quan trọng là những PCTL đáp ứng đòi hỏi của nghề [76, tr.41].
Tác giả Mạc Văn Trang và cộng sự (1993) đã nghiên cứu xác định “Một số đặc điểm tâm lý cá nhân phù hợp và phương pháp xác định chúng” đã đi sâu nghiên cứu một số nghề như: nghề y, nghề giáo viên mầm non, nghề giáo viên tiểu học, nghề bán hàng, nghề lái xe, nghề khảm trai [78, tr.1-112].
Trong lĩnh vực nghiên cứu PCTL đáp ứng yêu cầu của các lĩnh vực nghề nghiệp đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, cụ thể:
Về lĩnh vực sư phạm, đã có một số tác giả nghiên cứu về PCTL của giáo viên, người hiệu trưởng, cán bộ quản lý. Các tác giả tiêu biểu như: Lê Văn Hồng, Khăm Kẹo Vông Phi La, Nguyễn Thạc, Nguyễn Thành Nghị. Cụ thể, tác giả Lê Văn Hồng đã đề cập PCTL người giáo viên gồm: Thế giới quan khoa học; Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ; Lòng yêu trẻ; Lòng yêu nghề; Một số PC đạo đức và ý chí của người thầy giáo: tinh thần, nghĩa vụ của mình vì mọi người, tinh thần nhân đạo, tôn trọng, thái độ công bằng, chính trực, thái độ ngay thẳng, giản dị, khiêm tốn [30, tr.34]. Tác giả Khăm Kẹo Vông Phi La cho rằng người hiệu trưởng cần phải có ba nhóm phẩm chất: nhóm PC chất đạo đức; nhóm tư tưởng - chính trị; nhóm PC công việc. Trong đó nhóm PC đạo đức giữ vị trí quan trọng hàng đầu [35, tr.37]. Tác giả Nguyễn Thạc, Nguyễn Thành Nghị cho rằng nhân cách người cán bộ giảng dạy bao gồm những PC tư tưởng, chính trị, đạo đức, các năng lực và các PC tâm lý khác [73, tr.23]. Tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng người cán bộ quản lý cần có những phẩm chất đặc trưng, đó là: PC đạo đức; PC trí tuệ; Những năng lực của nhân cách quản lý như: mong muốn làm công tác quản lý, năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn, năng lực hợp tác với mọi người) (dẫn theo Đinh Đức Hợi, [35, tr.32]).
Về lĩnh vực y tế đã có nhiều tác giả nghiên cứu PCTL của người thầy thuốc, bác sĩ. Các tác giả tiêu biểu như: Phạm Tất Dong, Nguyễn Sinh Phúc, Trần Ninh Giang, Nguyễn Văn Nhận,…Tác giả Phạm Tất Dong (1989) cho rằng những người hoạt động trong nghề y cần có những PC: Tinh thần trách nhiệm; Sự tận tình; Sự thông cảm; Sự quan tâm; Lòng từ thiện [13, tr.56].
Tác giả Nguyễn Văn Nhận và cộng sự (1982) đã tiến hành khảo sát trên các đại đội trưởng học viên ở Học viện quân Y đã nêu ra một số phẩm chất tâm lý cho bác sĩ quân Y, đó là: Ý thức đoàn kết; Tính kỉ luật; Có xu hướng nghề nghiệp; Phẩm chất năng lực (quản lý, chuyên môn, tổ chức) [53, tr.41].
Tác giả Trần Ninh Giang (1993) trong công trình nghiên cứu “Một số đặc điểm tâm lý phù hợp nghề và các phương pháp xác định chúng” đã chỉ ra các PCTL của bác sĩ gồm: Có khuynh hướng đối với nghề y (tình yêu, hứng thú); Tinh thần trách nhiệm cao; Tính kiên nhẫn, tự chủ; Ổn định chú ý; Trí nhớ tốt; Tư duy logic linh hoạt; Có kỹ năng giao tiếp (dẫn theo Khăm Kẹo Vông Phi La, [35, tr.23]).
Tác giả Nguyễn Sinh Phúc (1999) đưa ra mô hình PCNC của bác sĩ quân y gồm 15 PC sau: Năng lực tổ chức chỉ huy; Năng lực chuyên môn; Lòng nhân ái; Lập trường tư tưởng; Sẵn sàng nhận nhiệm vụ; Khả năng giao tiếp; Tinh thần trách nhiệm; Nhiệt tình công tác; Tính kỷ luật; Uy tín; Trung thực; Ham nghiên cứu khoa học; Khiêm tốn; Tính tập thể; Tính sáng tạo [57, tr.31].
Về hoạt động kinh doanh có các đại diện tiêu biểu như: Nguyễn Phương Anh, Nguyễn Thị Kim Phương, Chu Xuân Việt, Nguyễn Thị Tuyết,…
Chu Xuân Việt (1993) một nhà doanh nghiệp trẻ cần có các PCTL như: Ý chí làm giàu; Nắm vững nghề nghiệp; Quản lý giỏi; Có tín nhiệm; Năng động, sáng tạo; Giỏi giao tiếp; Tiết kiệm; Trung thực; Từng trải; Bắt được thời cơ [55]. Tác giả Nguyễn Thị Tuyết và cộng sự (1997) đã phác họa chân dung 300 chủ trang trại trẻ ở Tỉnh Yên Bái với tư cách là nhà doanh nghiệp trẻ ở miền núi đã đưa ra được một số PCTL của họ như: Bền bỉ, chịu khó, cần cù; Năng động; Ham học ở đời và ở sách; Giao thiệp rộng; Có trí tuệ; Có chí; Mạo hiểm; Nhạy bén [37, tr.28].
Tác giả Nguyễn Thị Phương Anh (1996) trong nghiên cứu của mình đã nêu ra 14 PCTL của nhà doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động kinh doanh, đó là: Bền bỉ; Cần cù; Có chí; Dám mạo hiểm; Có đầu óc tính toán kinh doanh; Ham học hỏi, hiểu biết; Linh hoạt, năng động; Nhạy bén; Óc sáng kiến; Quảng giao; Quyết đoán; Thạo việc; Có kinh nghiệm về lĩnh vực mình kinh doanh; Thận trọng; Thông minh; Tự tin [2, tr.35].
Tác giả Nguyễn Thị Kim Phương (1996) trong “Nghiên cứu một số đặc điểm tâm lý - xã hội của giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam” đã đưa ra 60 PC cụ thể, chia thành 3 nhóm: những khả năng; những kỹ năng và những PC đặc trưng hiện có của giới doanh nghiệp trẻ ở Việt Nam trong đó có 20 PCTL [59, tr.25].
Về lĩnh vực tâm lý học quân sự một số tác giả có đề cập PCTL trong các công trình nghiên cứu của mình như: Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Anh Chiến, Lê Đức Phúc, Nguyễn Đình Gấm, Chu Thanh Phong, Bùi Xuân Hoàn, Đinh Hồng Tuấn, Phùng Đức Quát, Nguyễn Mai Lan, Trương Công Am, Đỗ Văn Thọ,…
Tác giả Đinh Hồng Tuấn (1996) trong nghiên cứu “Cơ sở tâm lý học của củng cố và nâng cao tính kỷ luật của các tập thể quân sự bộ đội đặc công” trên cơ sở phân tích đặc trưng khác biệt của điều kiện hoạt động quân sự của bộ đội đặc công, chỉ ra các nội dung tạo thành tính kỷ luật của một tập thể quân sự, các chỉ số đánh giá, các con đường, biện pháp nhằm củng cố, nâng cao tính kỷ luật của tập thể quân sự bộ đội đặc công [56, tr.32].
Tác giả Nguyễn Ngọc Phú (1998) đã đi sâu phân tích cấu trúc ý thức bảo vệ của người sỹ quan chỉ huy – một trong nhưng PC chính trị - tinh thần và đạo đức. Theo tác giả, PC này bao hàm ý thức giác ngộ giai cấp, dân tộc sâu sắc, có nhu cầu sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc và được thể hiện bằng những hành động tích cực cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc (dẫn theo Nguyễn Mai Lan [37, tr.38]).
Tác giả Chu Thanh Phong (1998), đã phân tích yếu tố cấu thành xu hướng nghề nghiệp quân sự của phi công tiêm kích lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam và xác định những con đường tác động hiệu quả đến quá trình phát triển thuộc tính tâm lý này của ở họ trong giai đoạn hiện nay. Tác giả Bùi Xuân Hoàn đã chỉ ra các PCTL cần thiết của cán bộ chính trị bộ đội biên phòng cấp cơ sở, đó là: PC chính trị - đạo đức; PC lối sống; PC năng lực chuyên môn nghề nghiệp; PC phong cách, tác phong công tác.
Tác giả Nguyễn Anh Chiến (2000) xây dựng mô hình NC người sĩ quan chỉ huy gồm 6 PCTL đặc trưng: PC chính trị - đạo đức; PC trí tuệ; PC lòng dũng cảm; PC ý chí vững mạnh; PC thể lực; PC năng lực nghề nghiệp. Tác giả Lê Đức Phúc đã tiếp cận cấu trúc NC quân nhân trên các mặt nhận thức, thái độ, động cơ, ý chí. Các mặt này được thể hiện qua các biểu hiện như: Tin tưởng, kiên quyết bảo vệ các lý tưởng cao đẹp của quân đội nhân dân; Luôn sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ Tổ quốc (mặt thái độ, động cơ, ý chí); Hiểu rõ về vị trí, chức năng, vai trò, nhiệm vụ, yêu cầu của một quân nhân (mặt nhận thức). Tác giả Nguyễn Đình Gấm (2002) khi bàn về “Những đặc trưng của sự phát triển nhân cách sỹ quan trẻ trong giai đoạn hiện nay”, đã cho rằng trình độ phát triển trí tuệ, khả năng thích nghi tâm lý xã hội, định hướng
giá trị là những đặc trưng của sự phát triển nhân cách sỹ quan trẻ trong giai đoạn hiện nay. Tác giả cũng nhận xét một số sỹ quan trẻ có biểu hiện về sự xói mòn giá trị truyền thống trong điều kiện kinh tế thị trường. Do chưa từng trải nên còn những trường hợp dao động, phai nhạt ý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu [8, tr.38].
Về ngành an ninh, đã có một số nghiên cứu sau:
Tác giả Nguyễn Mai Lan (2000) trong công trình “những phẩm chất tâm lý đặc trưng của Mã dịch viên” đã xác định 22 PCTL đặc trưng của mã dịch viên thuộc 4 nhóm: Xu hướng; tính cách; khí chất; năng lực [37, tr.22].
Tác giả Đỗ Văn Thọ (2003), trên cơ sở phân tích đặc điểm hoạt động của Cảnh sát hình sự đã đưa ra 3 nhóm PCTL như: PC chính trị - đạo đức; PC trí tuệ - năng lực; PC tính cách - ý chí. Cụ thể gồm 22 PCTL như: Lòng yêu nghề, có hứng thú đúng đắn với nghề; Lòng trung thành tuyệt đối với Đảng CSVN, với Nhà nước CHXHCN Việt Nam; Tinh thần đấu tranh bảo vệ lẽ phải; Tinh thần chịu đựng gian khổ, vượt khó; Có tinh thần trách nhiệm cao; Lòng tin vào những điều tốt đẹp; Tư duy nhanh nhạy; Trí nhớ tốt; Khả năng phán đoán tốt; Khả năng thích nghi, dễ hòa nhập; Khả năng phản ứng nhanh; Khả năng giao tiếp; Khả năng quan sát; Lòng dũng cảm; Tính quyết đoán; Tính kiên trì; Tính độc lập; Tính kỷ luật; Tính tự chủ tốt; Tính trung thực; Tính thận trọng [72, tr.34].
Tác giả Trương Công Am (2003) đã chỉ ra 3 PCTL cần có của điều tra viên như: PC chính trị thể hiện bản lĩnh của điều tra viên; PC đạo đức, phong cách nghề nghiệp; PC thể hiện năng lực hoạt động điều tra (dẫn theo Nguyễn Thị Phương Anh [37, tr.27]).
Về lĩnh vực quản lý cải tạo phạm nhân một số tác giả có đề cập đến PCTL của người cán bộ quản giáo trong các công trình nghiên cứu của mình như các tác giả: Nguyễn Hữu Duyên, Phạm Đức Duẩn, Lê Như Hoa, Đặng Thanh Nga, Nguyễn Văn Tập,…
Tác giả Đặng Thanh Nga (2009) đã đưa ra một số PC đối với nhà giáo dục phạm nhân như: Tình yêu nghề nghiệp; Thái độ nhân đạo đối với phạm nhân; Có ý chí vững vàng; Biết xử sự tế nhị có tính chất sư phạm; Có khả năng sư phạm; Có văn hóa, Có học vấn cao; Có khả năng tổ chức; Có khả năng tổ chức; Có phong thái bề ngoài (đàng hoàng, điềm đạm, bình tĩnh, cẩn thận; có khả năng giao tiếp). Tác giả Lê Như Hoa trong tác phẩm “Văn hóa, nghệ thuật với việc giáo dục phạm nhân” đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn việc giáo dục phạm nhân thông qua hoạt động nghệ thuật. Tác giả còn