Những nét đặc trưng trong văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Mỹ - 2

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH‌‌


1. KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA KINH DOANH

1.1. Khái niệm chung về văn hóa

Ngày nay, hai chữ “văn hóa” đã không còn xa lạ với hầu hết mọi người, tuy nhiên, có mấy ai biết được rằng bản thân từ “văn hóa” lại mang rất nhiều nghĩa. Bản thân các vấn đề văn hóa rất đa dạng, phức tạp, do đó có nhiều cách hiểu và nhiều cách tiếp cận nội dung thuật ngữ này.

Định nghĩa về văn hóa đầu tiên được chấp nhận rộng rãi là: “Văn hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm các kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và tất cả những khả năng, thói quen mà con người đạt được với tư cách là thành viên của một xã hội1.

Trong khái niệm nàycủa mình, nhà nhân chủng học Edward Burnett Tylor mới chỉ đề cập đến vấn đề văn hóa tinh thần còn văn hóa vật chất thì ông hoàn toàn chưa đề cập đến.

Trong triết học, chủ nghĩa Mác - Lenin cũng đề cập đến văn hóa: “Văn hóa là tổng hợp các giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra, là phương thức, phương pháp mà con người sử dụng nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và giáo dục con người2.

“Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị lãng quên - đó là văn hóa”.

Đây được coi là định nghĩa rộng nhất về văn hóa của E.Heriot.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Ngoài ra, còn có một khái niệm được coi là tương đối đầy đủ về văn hóa của Czinkota. Theo ông, “Văn hóa là một hệ thống những cách cư xử đặc trưng cho các thành viên của bất kì một xã hội nào. Hệ thống này bao gồm tất


Những nét đặc trưng trong văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Mỹ - 2


1 Trần Hữu Quang (2004), Đi tìm những yếu tố tâm lý – xã hội cản trở tinh thần khởi nghiệp, Thời báo Kinh tế Sài Gòn,6

2 Nguyễn Duy Bột chủ biên (1997), Giáo trình Marketing thương mại quốc tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 23

cả vấn đề từ cách nghĩ, nói, làm, thói quen ngôn ngữ, sản phẩm vật chất và tình cảm, quan điểm của các thành viên đó3.

Đứng từ góc độ kinh tế, một chuyên gia trong lĩnh vực giao lưu văn hóa và quản lý – Geert Hofstede đã định nghĩa: “Văn hóa là sự chương trình hóa chung của tinh thần giúp phân biệt các thành viên của nhóm người này với thành viên của nhóm người khác, theo nghĩa này văn hóa bao gồm hệ thống các chuẩn mực và các chuẩn mực là một trong số các nền tảng của văn hóa.”4 Từ những định nghĩa trên của nhiều tác giả khác nhau, nhìn từ nhiều

góc độ khác nhau có thể thấy được những đặc điểm chung nhất về văn hóa. Đó là: văn hóa là sản phẩm của xã hội loài người, được hình thành và được đúc kết cũng như được truyền từ đời này sang đời khác trong cuộc sống xã hội. Văn hóa có nhiều khía cạnh, lĩnh vực và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Khái niệm về văn hóa là rất đa dạng và linh hoạt giữa các lãnh thổ và tộc người khác nhau, vì vậy, trong khuôn khổ của khóa luận này, em sử dụng khái niệm về văn hóa của tổng giám đốc Unesco – Frederico Mayor làm chuẩn mực xuyên suốt cả đề tài của mình.

“Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất, cho đến những tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động”5.

1.2. Khái niệm về văn hóa kinh doanh

Cũng như khái niệm về văn hóa, văn hóa kinh doanh rất rộng và phức tạp, hoàn toàn không có một định nghĩa chính xác nào về nó.

Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo



3 Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục Hà Nội.

4 Vũ Quốc Tuấn, Để hình thành và phát triển tầng lớp doanh nghiệp Việt Nam, Doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ đổi mới, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 67

5 Robinson (1996), 72 vấn đề thực tiễn cần lưu ý trong kinh doanh tại Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, 7

ra trong quá trinh kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ6.

Khái niệm này đã chỉ ra được sự khác biệt giữa văn hóa kinh doanh – một bộ phận trong văn hóa dân tộc và văn hóa trong kinh doanh – những yếu tố của văn hóa trong văn hóa dân tộc.

Ngoài ra, trong khái niệm này, văn hóa kinh doanh có hai phương diện. Hai phương diện này có liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau, từ đó tạo ra những văn hóa riêng biệt và đặc thù cho từng doanh nghiệp.

Phương diện thứ nhất, sử dụng các nhân tố văn hóa vào hoạt động kinh doanh chủ thể tức là các yếu tố văn hóa này góp phần vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm, dịch vụ thỏa mãn thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng từ đó đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Thứ hai, trong quá trinh kinh doanh, các sản phẩm văn hóa cũng được tạo ra như triết lý, hệ giá trị

Một định nghĩa khác về văn hóa kinh doanh, nhưng lại đứng trên góc nhìn của những nhà quản trị học. “Văn hóa, nhất là văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp hay văn hóa tổ chức được hiểu là một hệ thống các giá trị. Các chuẩn mực, các quan niệm và hành vi do các thành viên trong doanh nghiệp đó sáng tạo và tích lũy trong quá trình tương tác với môi trường bên ngoài và hội nhập bên trong tổ chức. Văn hóa này sẽ được dùng để đánh giá các hành vi, do đó được chia sẻ và phổ biến rộng rãi giữa các thế hệ thành

viên như một chuẩn mực để nhận thức, tư duy và cảm nhận trong mối quan hệ với cá vấn đề mà họ luôn đối mặt7.

1.3. Văn hóa kinh doanh – Văn hóa doanh nghiệp

Văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp giống hay khác nhau, điều này phụ thuộc vào quan niệm của từng người. Thực chất, giữa văn hóa


6 TS. Đỗ Minh Cương (2001), Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh, NXB Chính trị Quốc gia, tr70

7 Ngô Quý Nhâm, Những thách thức lớn trong quá trình hội nhập

kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp có sự tương đồng nhưng đồng thời cũng có sự khác nhau về mức độ. Hiện nay, có hai quan điểm về mối quan hệ giữa văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp.

Quan điểm thứ nhất cho rằng văn hóa doanh nghiệp là một bộ phận của văn hóa kinh doanh. Văn hóa kinh doanh chính là nền tảng tinh thần, là linh hồn cho hoạt động kinh doanh của một quốc gia, nó được hình thành ngay từ khi xuất hiện các hoạt động kinh doanh trong đời sống xã hội của dân tộc đó và nó thể hiện phong cách kinh doanh của một dân tộc. Ví dụ: người Trung Quốc nổi tiếng với tính cộng đồng cao trong khi người Nhật Bản lại nổi tiếng về sự giữ chữ tín trong kinh doanh. Tất cả những điều này đã làm nổi bật lên rằng văn hóa kinh doanh không chỉ của riêng một doanh nghiệp nào mà là của cả một quốc gia, nó như một nét đặc trưng tiêu biểu trong văn hóa kinh doanh của quốc gia đó.

Theo đó, định nghĩa về văn hóa kinh doanh của viện kinh doanh Nhật Bản – Hoa Kỳ (Japan – American Business Acadamy - JABA) thì: “Văn hóa kinh doanh có thể được định nghĩa như ảnh hưởng của những mô hình văn hóa của một xã hội thành những thiết chế và những thông lệ kinh doanh của xã hội đó”.

Ngoài ra, còn có định nghĩa: “Văn hóa kinh doanh là sự thể hiện phong cách kinh doanh của một dân tộc. Nó bao gồm các nhân tố rút ra từ văn hóa dân tộc, được các thành viên trong xã hội vận dụng vào các hoạt động kinh doanh của mình và cả những giá trị, triết lýmà các thành viên này tạo ra trong quá trình quản trị kinh doanh8.

Theo định nghĩa này thì VHKD chỉ là một bộ phận của văn hóa, đồng thời VHDN cũng sẽ chỉ là một tiểu văn hóa trong VHKD của một quốc gia.



8 TS. Nguyễn Hoàng Ảnh (2004), luận án tiến sỹVai trò của văn hóa trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp ở Việt Nam.

Cách hiểu thứ hai là theo quan niệm của các nhà quản trị thì VHKD cũng chính là VHDN.

Theo Edgar H. Schein: “Văn hóa kinh doanh là tổng hợp những quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường xung quanh”.

Như vậy, chủ thể của VHKD chính là doanh nghiệp. Doanh nghiệp là chủ thể chính, mang tính quyết định đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh bên cạnh các nhân tố khác như nhà nước, tầng lớp xã hội Trong khuôn khổ của bài khóa luận, em dùng cách hiểu thứ hai.

Có nhiều quan niệm khác nhau về VHDN. Theo phép ẩn dụ so sánh, có người cho rằng VHDN là tính cách của DN. “Tính cách” này thể hiện ở mức độ nhân viên được khuyến khích đổi mới và mạo hiểm bao nhiêu?

Hay VHDN là “bộ gen” của doanh nghiệp. “Bộ gen” đó bao gồm quyền ra quyết định, thông tin, công cụ động viên và cấu trúc. Trong đó quyền ra quyết định thể hiện rằng ai quyết định cái gì, thực sự quyết định như thế nào và bao nhiêu người tham gia ra quyết định, phạm vi quyết định là bao nhiêu? Trong các yếu tố thông tin được thể hiện trong thành tích công tác được đo lường như thế nào, kiến thức được chia sẻ bao nhiêu? Nhân viên được khuyến khích quan tâm bằng cái gì, bằng cách nào?

TS. Phan Quốc Việt, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tâm Việt Group định nghĩa: “Nếu doanh nghiệp là chiếc máy tính thì văn hóa doanh nghiệp chính là hệ điều hành”.

Việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ bộ gen hay hệ điều hành máy tính tuy chưa đưa ra được cái nhìn tổng thể về VHDN nhưng cũng đã chỉ ra tầm quan trọng của VHDN. VHDN chính là xương sống của doanh nghiệp, quyết định đến sự thành bại của DN đó.

2. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VHKD

Cụm từ “văn hóa kinh doanh” cho đến nay không còn xa lạ đối với mỗi người mà đặc biệt là đối với mỗi doanh nhân, những người làm kinh doanh. Tuy nhiên, sự xuất hiện của cụm từ đó vào thời điểm nào thì cũng chưa ai xác định được. Có một điều chắc chắn rằng sự ra đời và phát triển của VHKD gắn liền với sự ra đời và phát triển của hoạt động kinh doanh.

Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của xã hội loài người, hoạt động xuất hiện gắn liền với sự ra đời của nền sản xuất hàng hóa. Ngay từ thời cổ đại, kinh doanh đã mang tư cách là một nghề với sự tham gia của các doanh nhân. Đây là một hành động chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển do sự phân công lao động tạo ra. Tuy nhiên, ở một số xã hội phong kiến như Trung Quốc là ví dụ, doanh nhân không được coi trọng. Mặc dù những doanh nhân đó là những người làm ăn lương thiện, chân chính, có tiền bạc, giàu có nhưng họ vẫn không được xã hội coi trọng, mọi người luôn quan niệm “sĩ, công, nông, thương”, luôn coi họ chỉ là con buôn.

Giữa văn hóa và kinh doanh có mối quan hệ mật thiết, vừa thống nhất vừa phụ thuộc vào nhau. Mục đích của kinh doanh là thu lợi nhuận còn văn hóa giúp cho DN phát triển bền vững. Không thể có văn hóa suy đồi mà kinh tế lại phát triển được. Văn hóa bao giờ cũng là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế, mặt khác, kinh tế phát triển lại là mảnh đất màu mỡ đầy thuận lợi cho sự phát triển văn hóa. Chính mối quan hệ giữa văn hóa và kinh doanh đã hình thành nên “văn hóa kinh doanh”. Điều này tạo ra những nét đẹp trong kinh doanh, tạo nên những nét đặc trưng trong kinh doanh của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. VHKD của một quốc gia tồn tại từ đời này sang đời khác, càng ngày càng tinh túy hơn do kế thừa và phát huy những bản sắc của dân tộc. Ngày nay, VHKD đã trở thành một cụm từ phổ biến không chỉ trong giới kinh doanh mà còn trong xã hội nói chung. Khi nhắc tới cụm từ ấy, người ta thấy được những nét mới trong kinh doanh ngày nay. Đó là: kinh doanh không chỉ thu lợi nhuận mà còn là kinh doanh có văn hóa.

3. ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA KINH DOANH

Nếu văn hóa là nền tảng tinh thần, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của một xã hội, một quốc gia thì VHKD chính là nền tảng tinh thần, là linh hồn cho hoạt động kinh doanh của một quốc gia.

Mỗi một doanh nghiệp đều có VHKD riêng, đặc trưng nhưng tựu chung lại, tất cả đều được hình thành trên nền tảng của văn hóa và chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa nói chung.Vì văn hóa kinh doanh là một bộ phận của văn hóa, là sản phẩm của nền văn hóa nên nó mang những đặc điểm của văn hóa nói chung đồng thời cũng mang những đặc điểm riêng của VHKD.

Đầu tiên, VHKD mang những đặc điểm của văn hóa. Đó là:

- Văn hóa tập quán

- Văn hóa cộng đồng

- Văn hóa dân tộc

- Văn hóa có thể học hỏi được

- Văn hóa mang tính chủ quan

- Văn hóa mang tính khách quan

- Văn hóa mang tính lịch sử

- Văn hóa mang tính kế thừa

- Văn hóa mang tính năng động

Ngoài ra, đặc điểm riêng của VHKD là:

VHKD xuất hiện cùng với sự xuất hiện của hàng hóa và thị trường.

Khi xã hội loài người xuất hiện thì văn hóa nói chung cũng xuất hiện, còn VHKD xuất hiện khi nền sản xuất kinh doanh đã tiến đến một mức độ phát triển nhất định. Khi đó, DN mới có đủ thời gian để kiểm chứng lại và xác định đúng đắn hơn con đường kinh doanh nào nên đi chứ không đơn thuần vì mục tiêu lợi nhuận như ban đầu.

VHKD mang tính chất quản trị.

Điều này thể hiện rõ qua các tập đoàn đa quốc gia. Dù ở đất nước nào trên thế giới họ vẫn mang theo một nền văn hóa của riêng mình, có từ lâu đời và nền văn hóa mà họ mang theo ít nhiều ảnh hưởng đến những nhân viên cùng làm việc và cùng chia sẻ với họ những giá trị tư tưởng chung.


VHKD chỉ được xem xét trên phạm vi hẹp với nhóm đối tượng cụ thể.

Phạm vi này chỉ có thể là thể nhận, pháp nhân, trong đó chủ yếu là VHKD của các công ty, tập đoàn và các doanh nghiệp.

VHKD của một quốc gia phù hợp với trình độ kinh doanh của quốc gia đó.

Ở một trình độ kinh doanh nhất định sẽ có một nền VHKD tương xứng, phù hợp với nó.

4. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NÊN VHKD

Xây dựng nền văn hóa kinh doanh là một việc làm có tính thực tế, mục tiêu cụ thể là nhằm làm cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh – yếu tố đóng vai trò quyết định đối với nền sản xuất của đất nước trở nên ngày càng mang tính văn hóa cao. Điều này thể hiện ở ba mặt: Văn hóa doanh nhân; Văn hóa thương trường và văn hóa doanh nghiệp. Ba mặt này chính là ba bộ phận hợp thành một nền văn hóa kinh doanh theo nghĩa toàn vẹn nhất.

Văn hóa doanh nhân: Văn hóa thể hiện ở đội ngũ những con người gồm cả cá nhân và tập thể tham gia sản xuất kinh doanh, chủ yếu thể hiện ở trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ và vốn tri thức tổng hợp. Văn hóa thể hiện ở kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng, năng lực tổ chức, đạo đức nghề nghiệp và ý thức công dân,

Văn hóa thương trường: Văn hóa thể hiện trong cơ cấu tổ chức, hệ thống pháp chế, các chính sách chế độ, trong mọi hình thức hoạt động liên quan quá trình sản xuất kinh doanh, gồm cả sự cạnh tranh,tất cả nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, tốt đẹp.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2022