Có Chiến Lược Xuất Khẩu Thích Hợp Đối Với Hàng Nông Sản Việt Nam Sang Thị Trường Trung Quốc


nhưng yêu cầu cụ thể của từng địa phương. Trung Quốc là một thị trường rộng lớn với nhu cầu đa dạng, mỗi vùng miền có những nhu cầu đối với hàng NS là không giống nhau. Điều này thực sự là thách thức của DN XKNS Việt Nam nhưng với mạng lưới trung tâm Xúc tiến thương mại của Bộ Công thương tại Trung Quốc hiện nay nếu phát huy được hết tác dụng cũng sẽ là một nguồn lực cực kỳ có giá trị giúp DN XKNS nắm được vững hơn thị trường hướng tới.

Thứ hai, nâng cao hiểu biết về văn hóa kinh doanh của DN Trung Quốc và văn hóa tiêu dùng của người tiêu dùng Trung Quốc

Người Trung Quốc đề cao các mối quan hệ lâu dài thông qua vun đắp, tin tưởng lẫn nhau. Họ đánh giá cao sự trung thực, đáng tin cậy vì thế các DN XKNS Việt Nam cần thể hiện mình là đối tác có hướng hợp tác lâu dài. Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, đều có xuất phát từ nền văn hóa lúa nước lâu đời vì thế đây cũng là một lợi thế của các DN nhập khẩu NS Việt Nam. Chính phủ cần hỗ trợ DN thông tin về thị trường Trung Quốc từ đó DN XKNS Việt Nam cần chủ động tìm hiểu để nắm rõ thị trường Trung Quốc thông qua sự hỗ trợ của các cơ quan chủ quản như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn.

Các DN nhập khẩu NS Việt Nam của Trung Quốc hiện nay đã phần là những DN vừa và nhỏ tại các tỉnh giáp biên giới Việt Nam như Quảng Tây, Côn Minh, Quảng Châu... vì vậy có tính tương đồng cao đối với người Việt Nam. Tuy nhiên các DN Trung Quốc khi làm việc với các DN Việt Nam vẫn luôn coi mình là trên một bậc. Vì vậy cách ứng xử hợp lý đối với DN XKNS Việt Nam là mềm rắn vừa đủ, không nên mọi thứ đều thuận theo phía Trung Quốc.

Đối với người tiêu dùng Trung Quốc, mặc dùng NS Thái Lan, Campuchia hay Myanmar xuất hiện sớm và phủ rộng hơn tại Trung Quốc nhưng theo khảo sát của tác giả, người tiêu dùng Trung Quốc có cảm tình nhất định với NS của Việt Nam do sự hiểu biết về Việt Nam ngày càng rõ hơn tại Trung Quốc. Giá cả của hàng NS Việt Nam rất cạnh tranh, chất lượng không hề thua kém NS Thái Lan. Và đặc biệt tâm lý sính ngoại của người Trung Quốc được thể hiện rất rõ trong khảo sát, nếu cùng loại mặt hàng NS chất lượng tương đương, một loại là của Việt Nam, một loại là của Trung Quốc, người tiêu dùng Trung Quốc sẽ không ngần ngại mà


chọn hàng NS của Việt Nam. Điều này mang lại nhiều lợi thế cạnh tranh cho mặt hàng NS Việt Nam. Vì vậy tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản Việt Nam, mẫu mã bao bì nên được nâng cấp để tiếp tục thu hút được người tiêu dùng Trung Quốc.

Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng NS Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Hoạt động XKNS của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc chịu cạnh tranh gay gắt từ nhiều quốc gia ở trong và ngoài khu vực.

Ngay trong khu vực ASEAN, NS Việt Nam đã chịu sự cạnh tranh lớn từ Thái Lan, một trong những nhà XKNS hàng đầu thế giới. Năm 2019, Trung Quốc là nhà nhập khẩu thực phẩm lớn nhất của Thái Lan, bằng cả bốn nước Campuchia, Lào, Malaysia và Việt Nam gộp lại, đạt kim ngạch lên tới 151 tỷ bạt (tương đương hơn 4,6 tỷ USD) tăng 34% so với năm 2018. NS của Thái Lan có những lợi thế nhất định như bao bì, mẫu mã đẹp, chất lượng sản phẩm đồng đều.

Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường Trung Quốc - 19

Ngoài ra, tại thị trường Trung Quốc còn có sự cạnh tranh của NS Mỹ và EU. Các nước này có công nghệ sinh học tiên tiến để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, công nghệ phân loại hàng, đóng gói bao bì, bảo quản và vận tải chuyên nghiệp nên sức cạnh tranh vượt trội so với NS Việt Nam. Như vậy, XKNS Việt Nam vào thị trường Trung Quốc bị cạnh tranh cả về giá cả lẫn chất lượng sản phẩm. Theo nghiên cứu, hàng NS Việt Nam hiện nay dần có chỗ đứng tại thị trường

Trung Quốc (trước mắt là tại các tỉnh giáp biên như: Quảng Tây, Côn Minh, Quảng Đông). Với lợi thế về mặt địa lý, chất lượng, giá cả NS Việt Nam đang ngày càng tìm được chỗ đứng tại thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên để cạnh tranh với các đối thủ tại thị trường Trung Quốc hiện nay, Việt Nam cần nâng cao chất lượng NS Việt Nam để thông qua được hàng rào kỹ thuật được phía Trung Quốc xây dựng lên thời gian gần đây.

Để làm được điều này cần giải pháp, chính sách đồng bộ từ phía Chính phủ như:

Xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh đảm bảo chất lượng. Liên kết sản xuất hình thành vùng sản xuất NS XK tập trung.

Mỗi địa phương lựa chọn ưu tiên phát triển mặt hàng NS chủ lực mà địa phương có lợi thế sản xuất, mang tính đặc sản vùng miền và có khả năng liên kết với các vùng xung quanh để tạo quy mô hàng hóa lớn:


Đảm bảo chất lượng sản phẩm, Trung Quốc với mức sống của người dân được nâng cao, yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng được chú trọng, đặc biệt là các sản phẩm NS. Vì vậy để tiếp tục có chỗ đứng tại thị trường này, NS Việt Nam thì ngoài việc cần áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như GlobalGAP nên áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến như HACCP, ISO...

Thứ tư, tăng cường đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống thông tin về thị trường NS trên thế giới.

Điều này cần thiết để phục vụ cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam XK hàng NS phù hợp, tránh thiệt hại và giảm những rủi ro không đáng có cho DN XKNS Việt Nam và người nông dân.

Đất nước ta đang từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ nông nghiệp. Để có thể đủ sức đứng vững và không quá hụt hẫng khi hội nhập với kinh tế quốc tế, nông dân, DN XKNS Việt Nam đang rất cần những thông tin hữu ích làm phương hướng sản xuất và kinh doanh XK hàng hóa nông nghiệp. Nhu cầu chính đáng đó đòi hỏi cơ quan các cấp, bộ ngành cần có sự phối hợp, có chính sách hỗ trợ để chuyển tải nhiều thông tin hơn nữa đến với người sản xuất, DN XKNS, không chỉ thông qua các kênh truyền thống như đài, báo chí, mà qua các kênh hiện đại khác như mạng xã hội doanh nghiệp, thư điện tử... Bên cạnh đó, có thể xây dựng hệ thống thông tin tổng hợp được cập nhật thường xuyên và nhanh chóng từ các nguồn chính phủ điện tử của các quốc gia, trong đó có Trung Quốc.

4.2.2. Có chiến lược xuất khẩu thích hợp đối với hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Trung Quốc

4.2.2.1. Lý do đề xuất giải pháp

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của luận án, nhân tố Chiến lược là nhân tố có ảnh hưởng dương và ảnh hưởng đến hoạt động XK của DN XKNS Việt Nam sang thị trường Trung Quốc với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,186. Như vậy nếu DN XKNS Việt Nam có định hướng thị trường rõ ràng, có chiến lược marketing đối với sản phẩm XK như cạnh tranh về giá, tổ chức khuyến mại, và có kế hoạch XK đầy đủ thì sẽ nâng cao hiệu quả, kết quả XKNS của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Quá trình phân tích cho thấy đa phần các DN XKNS Việt Nam sang thị trường Trung Quốc là nhỏ và siêu nhỏ, xuất phát điểm thấp về quy mô vốn lẫn nhân


lực nên đối với chiến lược XK còn chưa được coi trọng.

4.2.2.2. Mục đích giải pháp

Giải pháp được đề xuất với mục đích giúp DN XKNS Việt Nam sang thị trường Trung Quốc có chiến lược xuất khẩu đáp ứng tốt hoạt động xuất khẩu.

4.2.2.3. Các biện pháp thực hiện

Đối với chính phủ (Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao): Có định hướng đúng, đủ và tham mưu chiến lược XK sang thị trường Trung Quốc.

Không thể phủ nhận vai trò của thị trường Trung Quốc đối với hoạt động XKNS của Việt Nam, tuy nhiên vì nhiều lý do Trung Quốc cũng luôn là thị trường tương đối “nhạy cảm” đối với Việt Nam. Do vậy, rất nhiều thông tin về thị trường này còn khó tiếp cận, chính sách đối với thị trường này còn nhiều chỗ chưa được chú trọng. Mặc dù thời gian gần đây, Chính phủ đã có những quan tâm nhất định đối với thị trường 1,4 tỷ dân này tuy nhiên vẫn cần có những định hướng rõ ràng cho người sản xuất cũng như DN xuất khẩu Việt Nam

Định hướng rõ tính quan trọng của thị trường Trung Quốc đối với NS Việt Nam thông qua các kênh khác nhau để đến được với nhà sản xuất cũng như các nhà XKNS của Việt Nam: kênh hợp tác xã, hiệp hội, sở công thương các tỉnh...

Định hướng về việc cần phải đa dạng hóa thị trường XKNS, tuy nhiên từng phân khúc sản phẩm đáp ứng từng loại thị trường nhất định. Từ năm 2018 phía Trung Quốc đưa ra nhiều quy định mới về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với sản phẩm NS nhập khẩu, những vấn đề này cần phổ biến rộng rãi đến người sản xuất cũng như các nhà XKNS Việt Nam có đích đến là thị trường Trung Quốc đối với DN.

Bộ Công thương cần phối hợp với các cơ quan đại diện Việt Nam Trung Quốc để hỗ trợ tìm hiểu thông tin, ví dụ triển khai ngay một số giải pháp như nghiên cứu cơ bản về thị trường Trung Quốc, thị hiếu, quan tâm của Trung Quốc; cập nhật các thông tin về chủ trương, chính sách và những quy định mới của Trung Quốc, sự phản hồi của địa phương, doanh nghiệp Trung Quốc đối với sản phẩm của Việt Nam… từ đó tham mưu về trong nước để có chiến lược xúc tiến thương mại nông sản hiệu quả. Ngoài ra, cần tăng cường triển khai


trên quy mô lớn hơn các hoạt động quảng bá sản phẩm, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, kết nối giao thương cho doanh nghiệp hai nước thông qua các hội nghị, hội thảo và hoạt động kết nối kinh doanh B2B (doanh nghiệp với doanh nghiệp) theo hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến thông qua nền tảng kỹ thuật số nhằm góp phần thúc đẩy thương mại nông, thủy sản song phương trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 vẫn chưa được kiểm soát triệt để. Bên cạnh đó, phối hợp với cả phía doanh nghiệp để xây dựng các chính sách định hướng, chiến lược tổng thể và kế hoạch hành động để cải thiện chiến lược marketing các mặt hàng XK.

Bộ Công thương cần phối hợp với các cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc để khuyến khích, hướng dẫn và hỗ trợ các DN trong công tác xây dựng, đăng ký thương hiệu tại thị trường TQ để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm cũng như để bảo vệ quyền lợi, uy tín của sản phẩm VN tại thị trường này.

Bộ Công thương cần phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương trong việc: (i) tăng cường công tác thông tin, khuyến cáo tới các doanh nghiệp, thương nhân cần chủ động trong việc nghiên cứu, tìm hiểu, cập nhật yêu cầu của thị trường xuất khẩu, chú trọng, quan tâm thực hiện các giao dịch xuất khẩu thông qua hợp đồng mua bán ngoại thương, qua đó rút ngắn thời gian giao nhận hàng hoá tại cửa khẩu; (ii) chỉ đạo điều tiết hợp lý lượng hàng hóa khi vào mùa vụ thu hoạch lên các cửa khẩu để tránh ùn tắc, bị ép giá, hư hỏng hàng hóa (do hiện nay Trung Quốc cũng đã tổ chức trồng trọt nhiều loại hoa quả giống như Việt Nam, khi trái cây vào chính vụ, cả hai nước đều thu hoạch nên đã xảy ra tình trạng ùn tắc và hàng hóa Việt Nam bị ép giá).

Đối với doanh nghiệp

Doanh nghiệp XKNS Việt Nam cần có định hướng rõ ràng về thị trường XKNS của DN mình. Điều này đảm bảo DN tìm được sự thích ứng của sản phẩm NS đối với thị trường XK từ đó nâng cao thế mạnh của sản phẩm NS XK đề xuất kế hoạch xuất khẩu.

DN Việt Nam cần thúc đẩy xây dựng và quảng bá thương hiệu của thương hiệu NS, giúp người tiêu dùng Trung Quốc nhận biết và lựa chọn mua sản phẩm của Việt Nam rộng rãi hơn.


Xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh lâu dài với mạng lưới phân phối riêng tại thị trường Trung Quốc như đăng ký thương hiệu, mẫu mã, bao bì...

Nâng cao trình độ nghiệp vụ thương mại quốc tế, nghiên cứu nắm rõ văn hóa của Trung Quốc; thậm chí có thể thuê các đơn vị xây dựng phát triển thương hiệu của Trung Quốc phát triển thương hiệu cho các NS đặc thù của Việt Nam để phù hợp hơn với thị hiếu của Trung Quốc. Chú trọng xây dựng các sản phẩm, tài liệu quảng bá (catalogue, brochure, tờ gấp…) một cách chuyên nghiệp bằng tiếng Trung và mở rộng các hình thức quảng bá hiện đại, áp dụng công nghệ thông tin như trang web bằng tiếng Trung, video clip, các cổng thương mại điện tử, đồng thời cập nhật thường xuyên các thông tin tuyên truyền từ phía Chính phủ hay các hiệp hội doanh nghiệp, sở, cơ quan địa phương.

DN cần xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh và mạng lưới phân phối dài hạn. Cần có dịch vụ phòng chống gian lận cho thị trường Trung Quốc, một gợi ý cho DN XKNS Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi Cifas 36 và cho phát hiện và ngăn chặn gian lận danh tính.

4.2.3. Xây dựng và củng cố mối liên kết giữa các đối tác với doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam

4.2.3.1. Lý do đề xuất giải pháp

Dựa trên kết quả mô hình phân tích của luận án, nhân tố quan hệ là nhân tố có ảnh hưởng thuận chiều đến hoạt động XK của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường Trung Quốc với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,151, và qua đánh giá phân tích cho thấy mối quan hệ giữa nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà nhập khẩu và các cơ quan hữu quan có ảnh hưởng lớn đến hoạt động XKNS của DN XKNS Việt Nam sang thị trường Trung Quốc xử lý tốt các mối quan hệ này giúp hoạt động XK của DN XKNS Việt Nam đạt được kết quả khả quan.

4.2.3.2. Mục đích giải pháp

Giải pháp được đề xuất với mục đích là nâng cao và phát triển mối quan hệ đối tác giữa DN XKNS Việt Nam với nhà sản xuất, nhà cung ứng, nhà nhập khẩu và các cơ quan chức năng liên quan.

4.2.3.3. Các biện pháp thực hiện

Đối với chính phủ: Đại diện Chính phủ Việt Nam, các Bộ Ngoại giao, Bộ


Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Tham tán thương mại tại các nước, cần phối hợp chặt chẽ để đàm phán với các thị trường nhập khẩu NS đồng thời cập nhật thông tin những chính sách mới, các biện pháp thuế quan, hàng rào kỹ thuật, thông tin thị trường của các nước để Hiệp hội và các DN có những giải pháp tháo gỡ kịp thời. Tích cực tìm kiếm, giới thiệu các hiệp hội ngành hàng NS, các tập đoàn, DN uy tín tại các nước để thúc đẩy hợp tác với DN Việt Nam, tranh thủ vận động nguồn vốn ODA, FDI vào nông nghiệp, nông thôn. Hỗ trợ các cơ quan chức năng và DN trong nước quảng bá nông sản Việt Nam tại các nước.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần cung cấp thông tin liên quan đến các định hướng lớn, sản phẩm nông sản, việc đàm phán mở cửa thị trường để trên cơ sở đó cho các tham tán thương mại tại các nước có thông tin làm việc hỗ trợ cho sự phát triển. Bên cạnh đó, đề nghị phải tích cực phối hợp với Bộ Công thương trong việc tham gia mở rộng thị trường, các hội chợ triển lãm tại các nước. Ngược lại, phía Tham tán thương mại tại Trung Quốc cần thường xuyên cung cấp thông tin, đặc biệt là các thông tin thị trường, phân tích về thị trường để Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có định hướng XK. Các Tham tán thương mại nên thường xuyên chủ động trong công tác phối hợp để làm tốt hơn nhiệm vụ xúc tiến thương mại, hỗ trợ xúc tiến đầu tư, chuyển giao công nghệ, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp đáp ứng được các yêu cầu của các quốc gia khó tính… từ đó giúp cho các DN XKNS có được những chỉ dẫn cụ thể để thực thi các hoạt động xuất khẩu.

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn còn đang diễn biến phức tạp, gây ra hậu quả khó lường đối với đời sống kinh tế-xã hội, cần tiếp tục thúc đẩy các giải pháp sử dụng công nghệ truyền thông hiện đại nhằm phục vụ các công tác trao đổi, bàn bạc nhằm phối hợp làm việc một cách tốt hơn giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa các Bộ, ban, ngành, địa phương trong nước.

* Đối với doanh nghiệp: Để chủ động nguồn cung cả về số lượng và chất lượng, các DN lớn có thể tự xây dựng mô hình kết hợp DN vừa làm công tác nuôi trồng, chế biến và XK. Đối với các DN nhỏ, DN chuyên xuất khẩu nông sản không có khu nuôi trồng riêng thì nên chọn phương án thiết lập mối liên kết với các hộ nông dân thông qua các hợp đồng dài hạn, kèm theo trợ giúp vốn và kỹ thuật. Để


làm được điều này doanh nghiệp cần phải thiết lập mạng lưới cung ứng chặt chẽ nhằm đảm bảo chất lượng hàng NS XK.

Ngoài ra, khi cổ phần hóa các doanh nghiệp thu mua, chế biến NS, doanh nghiệp nên dành một số lượng cổ phiếu ưu đãi nhất định để bán cho nông dân vùng nguyên liệu. Đây là một trong những động thái tích cực thúc đẩy sự liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân. Doanh nghiệp và nông dân phải dựa sát vào nhu cầu, điều kiện của nhau để hoạt động sản xuất, kinh doanh. Để doanh nghiệp đi trao đổi, thống nhất với từng hộ nông dân là điều không thể. Do đó, các hộ nông dân sản xuất trong khu vực phải thay đổi phương thức sản xuất theo hướng hợp tác tự nguyện (câu lạc bộ, tổ hợp tác, hợp tác xã), cử ra ban đại diện để làm việc với doanh nghiệp. Trước mỗi vụ thu hoạch, ban quản lý tổ hợp tác cùng với nông dân tính toán chi phí, giá thành sản xuất để làm việc với doanh nghiệp thu mua trên địa bàn. Chính doanh nghiệp cũng sẽ tính toán chi phí, giá thành để cùng thống nhất với nông dân, cùng phân chia lợi nhuận.

Việc chủ động đảm bảo nguồn cung đầu vào của doanh nghiệp sản xuất còn nên được thực hiện trong việc giúp đỡ người nông dân nâng cao năng suất lao động. Một số các doanh nghiệp XK không có khu nuôi trồng riêng phải phụ thuộc phần lớn vào nguồn cung của nông dân. Dù được đảm bảo phần nào về chất lượng thông qua các hợp đồng dài hạn và trợ giúp về cả vốn và kỹ thuật nhưng xét về những đặc trưng sản xuất nông nghiệp của nước ta, sự chủ động và có trách nhiệm của các DN cần phải được thực hiện một cách cụ thể và thiết thực hơn. Việt Nam là một trong số các nước chịu ảnh hưởng nặng nề hậu quả của biến đổi khí hậu. Hàng năm, nước ta vẫn phải hứng chịu nhiều thiên tai như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn...gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc canh tác, thiệt hại nặng nề không chỉ cho người nông dân mà còn cho cả ngành XKNS nói chung. Việc đề xuất và thực hiện các giải pháp giúp người nông dân giảm thiểu thiệt hại của các yếu tố khách quan này là một việc làm mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với nhiều hộ nông dân, những kiến thức về nông nghiệp của họ chỉ dựa theo kinh nghiệm cá nhân. Đó là một rào cản lớn để họ có thể tự tìm và nghĩ ra các phương thức sản xuất mới đảm bảo ứng phó với những trường hợp này. Các doanh nghiệp nên chủ động mở các khóa đào tạo phổ cập kiến

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 31/05/2023