hướng chọn tạo giống mới đó là chọn tạo giống nhờ chỉ thị phân tử (Marker assited selection= MAS) và biến nạp gen (Gene transformation). Chỉ thị phân tử và bản đồ di truyền giúp các nhà chọn giống nhận biết được các gen của nhiều tính trạng nông sinh học là điều kiện đánh giá nguồn gen và chọn giống cà chua dựa trên chỉ thị phân tử (Jiaxin Xu et al., 2012) [107]. Chọn giống nhờ chỉ thị phân tử ở cà chua có liên quan đến liên kết chặt với mức độ đa hình trong các loài cà chua trồng khi sử dụng phương pháp này ( Bùi Thị Lan Hương, 2010) [16].
Những năm gần đây, việc ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cà chua đã mang lại những thành tích đáng kể. Ứng dụng công nghệ sinh học trong việc xác định hình thái cây con (Rao et al., 2006) [138], đánh giá đa dạng di truyền và mối quan hệ của các giống cùng chi Lycopersicon (Alvares et a.l, 2001) [63]; (Kochieva et al, 2002) [115]; (Tikunov et al., 2003) [148]. Chỉ thị phân tử còn được dùng để xác định các chỉ thị liên kết với các tính trạng quan trọng, phân lập gen và thiết lập bản đồ gen của cây cà chua (Saliba-Colombani et al, 2000) [142]; (Areshchenkova and Ganal, 2002) [66]; (Barry and Pandey, 2009)
[75]; (Sanchez et al., 2010) [141].
Để phát triển các giống cà chua chất lượng cao trong sản xuất, sử dụng phương pháp lai trở lại và phân tích tính trạng số lượng của hai loài phụ Lycopersicon hirsutum LA 407 và L. esculentum, Eileen et al., (2004) [89], đã chứng minh hai tính trạng đa gene (QTL trên bản đồ gene nằm trên các nhiễm sắc thể số 4 và số 11) có vai trò làm tăng màu đỏ của quả cà chua. Điều này mở ra hướng ứng dụng trong công tác chọn tạo giống cà chua giàu lycopen và cà chua có chất lượng cao (Georgelis N., et al. 2004) [98].
1.3.1.2. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống cà chua trên thế giới
Hiện nay xu hướng chọn tạo giống cà chua trên thế giới là tạo ra giống có khả năng chống chịu được nhiều loại bệnh hại (miễn dịch ngang), thích hợp cho chế biến và thu hoạch bằng máy. Những giống này có hàm lượng β-caroten cao, phù hợp trồng trong nhà kính, nhà lưới. Tuy nhiên mục tiêu chọn tạo giống có năng suất cao, phẩm chất quả tốt, chống chịu tốt với các điều kiện bất thuận và sâu bệnh, phù hợp với từng vùng sinh thái cụ thể vẫn luôn được quan tâm ưu tiên hàng đầu ở các nước đang phát triển. Các hướng nghiên cứu chọn tạo giống thường căn cứ vào điều kiện đất đai, khí hậu của từng vùng, kỹ thuật canh tác và nhu cầu sử dụng ăn tươi hay chế biến, từ đó xác định được mục tiêu cụ thể trong công tác chọn tạo loại cây trồng này (Nguyễn Hồng Minh, 2006) [24]. Xu thế chung của các nhà chọn tạo giống ở các nước là nghiên cứu phát triển giống và các dòng tạo giống là tổ hợp rất nhiều đặc điểm, tính trạng như chống chịu nhiều bệnh, năng
suất cao, chất lượng quả cải thiện, tỷ lệ đậu quả cao trong điều kiện nóng và sản xuất hạt lai dễ dàng (Wessel Beaver L. and Scott J.W. (1992) [156]. Có thể tóm tắt những kết quả theo một số mục tiêu chính trong chọn tạo giống cà chua như sau:
1.3.1.2.1. Nghiên cứu nguồn vật liệu khởi đầu
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu xác định giống và một số biện pháp kỹ thuật tăng năng suất và hiệu quả kinh tế trong sản xuất cà chua tại Đồng bằng sông Hồng - 2
- Đặc Điểm Thực Vật Học Cơ Bản Của Cây Cà Chua
- Tình Hình Sản Xuất Cà Chua Trên Thế Giới Và Ở Việt Nam
- Nghiên Cứu Và Ứng Dụng Kỹ Thuật Thâm Canh Cà Chua
- Nghiên Cứu Kỹ Thuật Sản Xuất Cà Chua Ở Việt Nam
- Nội Dung 1. Đánh Giá Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Kỹ Thuật Góp Phần Tăng Năng Suất, Hiệu Quả Sản Xuất Cà Chua Tại Đbsh.
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Trong những năm qua các nhà chọn tạo giống cà chua đã đánh giá cao công tác thu thập, nhập nội và khai thác nguồn vật liệu giống cà chua trong và ngoài nước. Tại trung tâm Nghiên cứu và phát triển rau màu thế giới (AVRDC), Đài Loan, ngay từ những năm 1990 đã thu thập được 48.723 mẫu giống cà chua từ 153 nước trên thế giới. Tại Cục Tài nguyên di truyền thực vật Ấn Độ đã thu thập lưu giữ 2.659 mẫu giống cà chua quí. Nguồn vật liệu này có vai trò quyết định trong chọn tạo giống cà chua ở Ấn Độ. Tại Trung tâm tài nguyên di truyền cà chua thuộc hệ thống ngân hàng gen cây trồng quốc gia Mỹ đang lưu giữ 13 loài cà chua hoang dại để tạo ra nguồn vật liệu dự trữ marker (marker stocks) và dữ liệu tế bào. Quĩ gen cà chua của Mỹ bao gốm hơn 5000 mẫu giống bao gồm cả cà chua trồng và các loài hoang dại. Tại hầu hết các nước có ngành sản xuất cà chua phát triển đều có các tập đoàn vật liệu khởi đầu phong phú để phục vụ công tác chọn tạo giống theo các mục đích sử dụng khác nhau.
1.3.1.2.2. Chọn tạo giống cà chua chống chịu sâu bệnh
Nhằm giảm chi phí thuốc BVTV, tăng thu nhập cho người trồng và an toàn cho người sử dụng, các công ty giống cây trồng trên thế giới đã tập trung chọn tạo các giống cà chua lai chống chịu bệnh tốt (Gaikwad et al., 2010) [97]. Một số giống cà chua lai (F1) chịu nhiệt đồng thời chống chịu với một số loại bệnh như héo xanh vi khuẩn, bệnh Fusarium, chịu tuyến trùng, có thể thích nghi với nhiều vùng trồng như Known –You 301, Vanguard và Sugar Pear đã được công ty giống Known-You (Nông Hữu), Đài Loan đưa ra sản xuất và xuất khẩu hạt giống (Lin and Lai, 1989) [120].
Nghiên cứu về gene qui định tính kháng bệnh vi rút xoăn vàng lá cà chua, các nhà khoa học đã xác định được 5 gene chính từ Ty-1 đến Ty-5 từ loài cà chua hoang dại kháng được bệnh TYLCV (Anbinder et al., 2009) [65], xác định được phổ gene kháng bệnh TYLCV từ các loài cà chua hoang dại (Vidavski F. et al, 2008) [152]. Dagan et al.,(2012) [82] đã xác định được gene SlVRSLip từ các giống cà chua kháng bệnh TYLCV thuộc loài Solanum lycopersicum kháng được virut xoăn vàng lá. Mohamad Abhari et al. (2007) [129], khi nghiên cứu sự đa dạng của các chủng virut gây bệnh xoăn vàng lá cà chua (TYLCV) bằng chỉ thị DNA đã phân lập được các chủng virut và xác định được mối quan hệ giữa các
chủng trên thế giới. Kết quả này đã tạo được sự thuận tiện trong việc nhận diện giống cà chua kháng bệnh virut xoăn vàng lá bằng chỉ thị phân tử .
Nghiên cứu tạo giống cà chua kháng bệnh virus là mục tiêu của AVRDC đặt ra sau chương trình nghiên cứu cà chua chịu nhiệt, kháng bệnh sương mai và chất lượng quả cao. Sử dụng gene Ty-2 từ giống H24, chuyển vào các dòng CLN2114, CLN2116 và CLN2123, qua nhiều thế hệ chọn lọc AVRDC đã chọn được các dòng CLN2679A, CLN2679C và CLN2623A mang gene Ty-2 kháng được các chủng virus gây bệnh xoăn vàng lá và có năng suất vượt trội từ 99 – 103 tấn/ha, có chất lượng quả cao. Các giống này đã được phát triển ở các nước châu Á, nơi có nguy cơ nhiễm bệnh cao. Giống FMTT906 kháng được bệnh vàng xoăn lá và bệnh héo rũ fusarium chủng 1, có dạng quả đẹp, quả cứng, chịu được vận chuyển xa, không bị nứt quả, chín sớm, chịu nhiệt độ cao (AVRDC Report, 2004; 2005 và 2008) [70], [71], [72]. Nhiều dòng, giống cà chua ăn tươi của AVRDC đã được lai hữu tính và chọn theo hướng kháng bệnh héo xanh vi khuẩn thành công (Wessel Beaver et al, 1992) [156]; (AVRDC reports, 2005) [71].
Xác định bộ gene kháng bệnh héo xanh vi khuẩn trên cây cà chua, các nhà khoa học Mê Hi Cô đã dùng kỹ thuật AFLP để phân lập được bộ gene kháng bệnh héo xanh vi khuẩn từ các loài cà chua trồng và cà chua hoang dại khác nhau như Solanum lycopesicum, Solanum peruvianum LA2157, S. peruvianum LA2172 và
S. habrochaites LA2128 (Jose Pablo et al., 2012) [112].
Để chọn lọc được các giống cà chua kháng bệnh mốc sương, các nhà khoa học của AVRDC đã tìm ra hai gene Ph-1 và Ph-2 từ các loài cà chua hoang dại có khả năng kháng bệnh và chuyển vào các giống cà chua trồng. Kết quả tạo ra 28 dòng có chứa gene Ph-1 và Ph-2 và một số gene kháng bệnh đốm nâu. Ngoài ra, gene ph-3 nằm trên nhiễm sắc thể số 9 từ giống L3708 có nguồn gốc từ dạng hoang dại Solanum pimpinellifolium L. cũng đã được AVRDC xác định và chuyển sang các giống cà chua thương phẩm để tạo ra giống kháng được bệnh mốc sương (Chunwongse J. et al., 2002) [81]; Min-Jea Kim et al., 2005) [128].
Nghiên cứu về gene qui định tính kháng bệnh đốm lá sớm trên cà chua, R. Chaerani và cộng sự (2007) đã xác định được 6 QTLs trên các nhiễm sắc thể 1,2,5,7 và 9 qui định tính kháng bệnh đốm lá sớm từ cặp lai giữa hai loài phụ Solanum lycopesicum và S. arcanum (Chaerani et al., 2007) [79].
1.3.1.2.3. Chọn tạo giống thích ứng với điều kiện bất thuận / trái vụ
Tại AVRDC, nghiên cứu, phát triển bộ giống cà chua có khả năng đậu quả cao ở điều kiện nhiệt độ và ẩm độ cao, tạo giống chịu nóng cho vụ hè ở khu vực châu Á được thực hiện những năm qua, đã cung cấp cho các nước trong khu vực
rất nhiều dòng, giống cà chua chịu nóng để các nước tiếp tục tuyển chọn các dòng thích ứng được với điều kiện quốc gia (AVRDC reports 2003, 2012) [69] [73].
Viện Nghiên cứu nông nghiệp Ấn Độ (IARI) ở Newdeli đã phát triển thành công các giống cà chua Puas Rugy và Sel.120 thích hợp trồng ở điều kiện nhiệt độ cao. Giống Puas Ruby được chọn tạo bằng phương pháp lai giữa Siou x Meerutti cải tiến thuộc loại hình sinh trưởng vô hạn, khỏe, tán rộng, ít nhánh, quả có loại hình dẹt đến tròn, khối lượng quả từ nhỏ đến trung bình, chín đỏ thẫm, với số quả/cây là 25 – 30, năng suất trung bình 25 tấn/ha, chín sớm sau 60 – 65 ngày sau trồng, thích hợp trồng ở cả vụ Thu và vụ Xuân Hè. Giống Sel.120 thuộc loại hình sinh trưởng bán hữu hạn, tán rộng, lá xanh thẫm, quả tròn dẹt, khối lượng quả từ trung bình đến to, mềm, đỏ đều, ít hạt, chịu nhiệt và có khả năng kháng bệnh tuyến trùng, thích hợp sản xuất vụ Hè và vụ Đông (Singh and Checma, 1989) [146]; Thomas and Umesh, 1989) [150].
Tại vùng Sakol Nakhon, Thái Lan, Trung tâm đào tạo nghiên cứu nông nghiệp Lampang đã đánh giá bộ giống có nguồn gốc thu thập khác nhau và xác định được giống cà chua ăn tươi Seeda Hauy-sai và giống Seeda thích nghi với điều kiện khí hậu trong vụ mưa, đạt yêu cầu chất lượng của thị trường, năng suất quả đạt 34 tấn/ha và 32,97 tấn/ha (Pichet and Anon, 1996) [135].
Các nhà khoa học Bulgari đã tạo ra được các tổ hợp lai Jar và Dar thuộc dạng bán hữu hạn, thích hợp cho trồng sớm trong điều kiện nhà nhân tạo và giống Viki, Asja và Lorin thuộc dạng hữu hạn thích hợp cho sản xuất trên đồng ruộng trong điều kiện chính vụ. Nhóm tác giả này cũng đã phát hiện ra gen ps-2 quy định tính bất dục đực ở cà chua và họ đã ứng dụng thành công trong sản xuất các giống cà chua nói trên (Zhivko Petrov, 2000) [158]. Tại Philippin, hai giống cà chua lai trồng trái vụ Panagulan và Bonanza đã được công ty giống cây trồng East-West đưa vào sản xuất năm 1986 (Soriano et al., 1989) [147].
Canh tác cà chua trong điều kiện nhiễm mặn ở nhiều vùng trên thế giới cũng là một mục tiêu mà sản xuất đang hướng đến. Ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn tạo giống cà chua chịu mặn là hướng đang được các nhà khoa học quan tâm. Foolad et al., (2012) [94] khi nghiên cứu trên quần thể F2 của cặp lai L. esculentum (UCT5) x L. pennellii (LA716) đã xác định được 3 gene Est-3 trên NST số 1, Prx-7 trên NST số 3 và 6Pgdh-2 và Pgi-1 trên NST số 12 có liên kết chặt với tính chịu mặn của cây cà chua, và cũng xác định được 02 gene Got-2 trên NST số 7 và Asp-2 trên NST số 8 không qui định tính chịu mặn. Với kết quả này, các nhà khoa học sẽ rút ngắn được thời gian trong việc xác định tính chịu mặn trong các giống cà chua mới bằng chỉ thị phân tử. Nghiên cứu sự tương tác giữa
khả năng chịu mặn và độ ẩm không khí để đề xuất phương pháp canh tác hợp lý trên đất nhiễm mặn cũng được đề cập [64].
Hạn hán là một trong những yếu tố phi sinh học làm hạn chế năng suất cây trồng, đặc biệt ở những vùng khô hạn và bán khô hạn. Ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cà chua chịu hạn và chống chịu sâu bệnh tốt, Nasar Virk và cộng sự (2012) đã xác định được gen SIMPK4 qui định khả năng chống chịu các yếu tố phi sinh học và chức năng hoạt động của nó trên cây cà chua. Với việc lây nhiễm để xác định tính kháng bệnh, tác giả đã chứng minh được gene này qui định tính kháng của cà chua đối với Botrytis cineria. Như vậy, cây cà chua mang gene SIMPK4 sẽ kháng được bệnh Botrytis cineria và chịu được khô hạn. Kết quả này rất có ý nghĩa cho các nhà chọn giống cà chua trong công tác chọn tạo giống cho điều kiện bất thuận (Easlon H M, 2009) [87]; Nasar Virk et al., 2012) [130].
1.3.1.2.4. Chọn tạo giống năng suất cao
Nghiên cứu, phát triển bộ giống cà chua lai F1 có năng suất cao, thịt quả dày, màu sắc thích hợp, khẩu vị ngon đã rất thành công tại Đài Loan. Đến năm 2005, hầu hết diện tích cà chua được trồng nơi đây đều là các giống ưu thế lai, và ngành sản xuất cà chua lai F1 đã trở thành ngành kinh doanh ở Đài Loan, góp phần quan trong trong xuất khẩu cà chua của nước này (AVRDC reports, 2005) [71].
Chọn tạo giống cà chua lai có năng suất quả cao rất thành công ở Mỹ. Năm 1920 các giống cà chua chế biến chỉ cho năng suất 10,1 tấn/ ha, đến năm 2004, năng suất của các giống cà chua chế biến đã là 120 tấn/ ha. Một thời gian dài, chọn tạo giống cà chua ở Mỹ trên cơ sở phát triển các giống thuần cung cấp cho sản xuất, nhưng từ năm 1970 đã tập trung tạo giống cà chua ưu thế lai. Ngày nay tạo giống ưu thế lai cao về năng suất là chủ yếu ở các nước như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu.
Ở Ấn Độ, để tạo giống ưu thế lai về năng suất và các tính trạng quả, các nhà khoa học đã tạo ra hàng loạt các tổ hợp lai giữa một dòng thử kháng héo xanh vi khuẩn và các giống cà chua thương mại dùng trong chế biến. Ưu thế lai đã được xác định ở tính trạng khối lượng quả trong 2 tổ hợp lai (Sakthi x Fresh market 9 và Sakthi x HM208F), năng suất cá thể trong 2 tổ hợp (Sakthi x TH3318 và Sakthi x Fresh market 9) và độ dày thịt quả ở các tổ hợp (Sakthi x St64, LE206 x 64, LE214 x St64), mức độ biểu hiện ưu thế lai đạt được từ 5,95 – 21,37% (Alica et al, 2001) [61].
Trung Quốc là nước có nhiều thành công trong lĩnh vực nghiên cứu, tạo giống cà chua lai cho năng suất cao, chất lượng tốt. Hiện nay, các giống cà chua lai F1 chiếm khoảng 85% giống trồng trong sản xuất.
Thông qua thí nghiệm đánh giá quá trình đậu quả diễn ra trong thời điểm có biên độ nhiệt ngày/đêm cao (32/270C) và ẩm độ 90% của 18 giống cà chua chịu nhiệt có nguồn gốc từ địa phương và nhập nội, các nhà khoa học Pháp đã đã xác định được giống Saladette có nguồn gốc từ Hoa Kỳ là giống có năng suất cao trong nhóm giống có tỷ lệ đậu quả cao (60 – 100%), giống lai F1 Tulona (Pháp) và giống F1 Capitan (Mỹ) cho năng suất cá thể cao tương ứng 2,9 kg và 3,1 kg. (Denoyes and Anais, 1989) [84]; (Denoyes and Rhino, 1999) [85].
1.3.1.2.5. Chọn tạo giống chất lượng cao
Tại Mỹ, công tác chọn tạo giống cà chua chất lượng cao đã đạt được những kết quả quan trọng. Trường Đại học Florida đã tạo ra một số giống cà chua ăn tươi có chất lượng cao. Các yếu tố đảm bảo là khả năng kết hợp của các dòng thuần, qui tụ năng suất, tính chống chịu và chất lượng vào giống ưu thế lai. Chọn giống cà chua có hàm lượng β-Caroten, hàm lượng lycopen cao đã được John và cộng sự (2005) [110] thực hiện trên cơ sở đánh giá cảm quan và phân tích hàm lượng các chất trong quả cà chua của nhiều dòng giống từ nhiều nguồn thu thập. Kết quả một số dòng cà chua có hàm lượng lycopen cao đã được xác định để làm nguồn vật liệu ban đầu cho chọn tạo giống cà chua chất lượng cao [60]. Giống cà chua đen Indigo Rose, sản phẩm ghép cà chua đỏ và tím, cho hàm lượng anthocyanin cao, ngon thơm và ngọt hơn các giống thông thường đã được công ty Sutton Seed, Devon, Mỹ chọn tạo thành công đưa vào sản xuất, Hiện sản phẩm quả đã có mặt trên thị trưởng ở Mỹ và Anh [73].
Ở Ba Lan, thông qua nghiên cứu đánh giá chất lượng một số dòng và giống cà chua, Michalik và CS (1986) đã xác định được giống Pulawski Pizemyslowy và dòng PH1703 có hàm lượng chất khô trong quả đạt 5,1%, tiếp đến là Pizemyslowy IN, đạt 5,0%, trong khi giống đối chứng Grand có hàm lượng chất khô chỉ đạt (2,71%), tỷ lệ đường/axit (7/8) tốt nhất là ở các giống 01355 và VF92-12 (dẫn theo Tiwari and Choudhury, 1993) [149].
Tại AVRDC, Đài Loan những năm gần đây đã tạo ra được 9 dòng cà chua ăn tươi chịu nhiệt với gen Ty-3 kháng xoăn vàng lá, kháng bệnh mốc sương (Ph2
+ Ph3) và có chất lượng quả cao để cung cấp cho các nước ở vùng nhiệt đới khảo nghiệm (AVRDC, 2012)[73]. Giống cà chua ngọt Sugardrop trồng tại Tây Ban Nha, sản phẩm lai kép của các giống cà chua có hàm lượng đường cao, giống có quả nhỏ, giàu vitamin C, độ brix cao từ 9-13 %, đã có mặt trên thị trường của Anh với giá bán 2,5 đô la cho 280g, cao gấp 4 lần so với giá cà chua thường.
1.3.1.3. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống cà chua ở Việt Nam
Nhìn chung, nghiên cứu chọn tạo giống cà chua ở nước ta thường tập trung vào các mục tiêu như sinh trưởng khỏe, năng suất cao, quả chắc, thịt quả dày, chịu nứt quả cao, chống chịu sâu bệnh tốt, chịu nhiệt, ngắn ngày, thời gian bảo quản dài, màu sắc chín đỏ đều, chất lượng đáp ứng yêu cầu ăn tươi và chế biến. Cho đến nay, số lượng và chủng loại giống cà chua đã trở nên phong phú, đa dạng, phần nào đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng (Lê Thị Thủy, 2012) [55].
Theo kết quả điều tra của Phạm Đồng Quảng và CS.,(2005) [34], đến năm 2005 cả nước có 115 giống cà chua được gieo trồng, trong đó có 22 giống chủ lực, 10 giống có diện tích gieo trồng lớn nhất 6.259 ha bằng 55% diện tích cả nước, đứng đầu là M368 (1.432 ha), tiếp sau đó là các giống cà chua Pháp, VL 2000, TN002, các giống cà chua Mỹ, Ba Lan, Red Crown, T42, VL2910 và các giống của công ty Trang Nông.
Để thực hiện mục tiêu phát triển rau hoa quả giai đoạn 2010-2015 và tầm nhìn 2020 của chính phủ. Cây cà chua là một trong những cây rau quan trọng được ưu tiên nghiên cứu phát triển trên qui mô lớn. Tham gia vào công tác này có các Viện nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, Viện Nghiên cứu rau quả, Viện KHKT Nông nghiệp miền nam, Viện Di truyền nông nghiệp, các trường đại học Nông nghiệp Hà Nội, Đại học Thủ Đức, Sư phạm Qui Nhơn và một số công ty. Có thể phân quá trình chọn tạo và phát triển cây cà chua ở nước ta ra một số giai đoạn như sau:
Giai đoạn từ cuối những năm 70 đến 1990, công tác nghiên cứu chủ yếu tập trung bằng con đường nhập nội và tuyển chọn giống từ nguồn vật liệu du nhập. Điển hình là từ tập đoàn cà chua 100 mẫu giống nhập nội, trong giai đoạn 1973 - 1984 tác giả Tạ Thu Cúc đã nghiên cứu, xác định được một số giống cà chua thích ứng cho vụ Xuân Hè ở vùng Đồng bằng sông Hồng, trong đó cà chua dại L. racemigerum có khả năng chống chịu bệnh cao nhất, các giống Pháp số 7, BCA-5, Cuba chống chịu bệnh khá. Các giống cho năng suất cao đó là: BCA-5, Nhất số 2, BCA 1, Cuba, Ruko11 và BCA-3 (Tạ Thu Cúc, 1985) [7]. Giống cà chua số 7 được chọn lọc ra từ giống Hunggari, có khối lượng trung bình quả 80-100 g, chín đỏ, cây sinh trưởng mạnh, thích hợp cả vụ Đông Xuân và Xuân Hè (Chu Thị Ngọc Viên, Vũ Tuyên Hoàng,1987) [56]. Giống cà chua Ba Lan, Nozuma, Dazuma, là những giống có năng suất cao, chịu nhiệt tốt, được sản xuất chấp nhận trong thời gian dài (Bộ NN &PTNT, 2009) [5].
Giai đoạn 1990-1999, trong chương trình nghiên cứu thuộc đề tài KN-01- 12, giai đoạn 1991-1995, có mục tiêu là chọn giống cà chua chịu nóng trồng trong
vụ Xuân Hè ở các tỉnh phía Bắc, chọn giống cà chua năng suất cao, thích hợp cho các dạng chế biến công nghiệp và dạng cà chua quả nhỏ sử dụng ăn tươi. Trong giai đoạn này nghiên cứu tạo giống ưu thế lai bắt đầu được phát triển mạnh từ năm 1998. Kết quả của đề tài đã có 03 giống được công nhận là giống Quốc gia và một giống khu vực hóa. Các giống VR2 của Viện Nghiên cứu Rau quả, giống cà chua Hồng Lan, Lai số 1, Lai số 2, cà chua 214 của Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm, giống SB2 và SB3 của Viện KHKT Nông nghiệp miền nam, giống MV1 của Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, giống P.375 của Trung tâm Kỹ Thuật rau hoa quả Hà Nội được công nhận để phục vụ sản xuất (Vũ Tuyên Hoàng và CS, 1990) [13]; (Vũ Tuyên Hoàng, 1998) [14]; (Vũ Thị Tình và CS, 1998) [36];
(Nguyễn Hồng Minh và CS,1999) [23]; (Mai Văn Quyền và CS, 1994) [35]; (Đào Xuân Thảng, 1999) [39]. Tác giả Đặng Thị Chín tại Trường Đại học Quy Nhơn đã đánh giá hiệu ứng ưu thế lai và xác định được giống cà chua nhập nội số 5 và số 6 cho năng suất cao, giống số 6 đạt tới 68 tấn/ha (Đặng Thị Chín, 1994) [9].
Giai đoạn từ 2000 đến nay với sự nỗ lực của các nhà khoa học, được sự đầu tư thích đáng từ các Chương trình chọn tạo giống, nhiều giống cà chua thuần và cà chua lai F1 chọn tạo ra từ Viện Nghiên cứu Rau quả, Viện Cây lương thực và cây thực phẩm, Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội... đã được giới thiệu và phát triển, góp phần đa dạng hóa bộ giống cà chua trong sản xuất ở miền Bắc. Đặc biệt đã tập trung nghiên cứu chọn tạo ra các giống cà chua Xuân Hè, nhằm tạo ra sản phẩm giá trị hàng hóa cao để cung cấp cho thị thường, nâng cao thu nhập cho người dân.
Viện Cây lương thực và cây thực phẩm đã chọn tạo thành công 2 giống cà chua chế biến C95, C155 và các giống cà chua lai VT3 và VT4. Giống C95 tạo ra từ tổ hợp lai NN325 x số 7. Giống có thời gian sinh trưởng 125-130 ngày, ra hoa tập trung. Quả thon dài, ít hạt, năng suất 40-50 tấn/ha ở chính vụ, chất lượng tốt, giống thích hợp trồng trong vụ sớm, vụ Thu Đông và vụ Xuân Hè. Giống cà chua VT3 có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe, chống chịu sâu bệnh tốt, thích ứng rộng, năng suất cao 44,35 tấn/ha trong vụ đông sớm và đạt 59,14 tấn/ha trong vụ đông chính và đạt 30,62 tấn/ha trong vụ xuân hè. VT3 có dạng quả to trung bình, hình tròn dẹt, cùi dày, vai xanh khi chín màu đỏ thẫm, nhiều bột, độ Brix đạt 4,6%, thích hợp cho ăn tươi, giống VT4 có năng suất cao từ 50,04-60,21tấn/ha, chống chịu được một số bệnh vi khuẩn, vi rút và sương mai khá [41], [42], [6].
Viện Nghiên cứu rau quả đã chọn tạo thành công các giống cà chua chế biến PT18, các giống cà chua lai FM20, FM 29, lai số 9. Giống PT18 có quả thuôn dài, năng suất khá, thích hợp cho cả ăn tươi và chế biến trồng được trong 3 vụ Thu Đông, Xuân Hè và vụ Đông. Giống cà chua lai số 9 có biểu hiện ưu thế lai cao,