dưỡng trong các bữa ăn hàng ngày. Theo nghiên cứu của Đặng Oanh (2000) [64], cho biết có tới 48,58% trẻ em dưới 60 tháng tuổi bị suy dinh dưỡng, trong đó suy dinh dưỡng độ II và III chiếm 20,87%. Các bà mẹ bị thiếu dinh dưỡng trường diễn có chỉ số BMI <18,5 là 29,1%. Năng lượng bình quân đầu người khoảng 1999 Kcal, so với mức đề nghị của Viện Dinh dưỡng Việt Nam là 2300Kcal, chỉ đạt được 86,91%. Thức ăn hằng ngày có nguồn gốc động vật rất thấp, protid từ động vật chỉ đạt 0,28 g trên đầu người, năng lượng cung cấp chủ yếu là glucid 83,09%, nguồn thực phẩm chủ yếu là ngô, sắn, gạo,...hàm lượng sắt có 9,18mg so với nhu cầu hằng ngày phải từ 15 đến 20mg/ngày. Qua những lý do trên cũng có thể lý giải được tại sao người phụ nữ dân tộc Ê đê có tỷ lệ thiếu máu cao, chiếm 87,5%.
Tình trạng sức khỏe, mô hình bệnh tật, dinh dưỡng của người dân tộc bản địa là vấn đề đòi hỏi ngành Y và các ngành khác cần phải có quan tâm đặc biệt về sự phát triển nhân lực, kinh tế cho vùng, trong thời gian hiện tại cũng như tương lai của đất nước. Như vậy triển khai uống thuốc tẩy giun cho cộng đồng người dân tộc Tây Nguyên là rất thiết thực, có như vậy sức khỏe của đồng bào dân tộc Tây Nguyên dần dần mới được cải thiện.
Kết quả nhiễm giun chung của chúng tôi phù hợp với một số tác giả khác nghiên cứu tại địa bàn Đắk Lắk:
Ngô Thị Tâm (2005) [78], nghiên cứu trên cộng đồng dân tộc Ê đê huyện Lắk có tỷ lệ nhiễm chung 76,36%. Ở đây người dân sống chủ yếu dựa vào trồng cà phê, vệ sinh môi trường sống thấp, tỷ lệ hộ gia đình không có nhà tiêu hợp vệ sinh cao 68%, tỷ lệ số hộ đại tiện xung quanh nhà 74%, tỷ lệ người dân tự mua thuốc uống tẩy giun định kỳ rất thấp chỉ có 10%.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thao và CS (2006) [83] ở người dân tộc Êđê xã Ea Knuêk, huyện Krông Păk cho thấy tỷ lệ nhiễm giun chung 71,2% nguyên do nhà ở của đồng bào rất đơn sơ, gia xúc thả rông, số hộ không có nhà tiêu 83,7%, đại tiện xung quanh nhà 79%, không rửa tay
trước khi ăn 63,9%, tỷ lệ người thường xuyên đi chân đất làm rẫy 56,3% và tự mua thuốc uống tẩy giun định kỳ 5,8%.
Có thể bạn quan tâm!
- Biểu Đồ Biểu Diễn Hành Vi Không Đúng Trong Phòng Chống Nhiễm Giun Của 984 Chủ Hộ Gia Đình Ở 2 Xã Nghiên Cứu
- Tỷ Lệ Tái Nhiễm Giun Đũa, Giun Móc/mỏ Sau 2 Tháng Và 4 Tháng Điều Trị Ở Xã Hòa Xuân
- Biểu Đồ Biểu Diễn Hiệu Quả Tt-Gdsk Nâng Cao Thực Hành Sử Dụng Nhà Tiêu Tại Xã Hòa Xuân
- Cường Độ Nhiễm Giun Ở 2 Xã Nghiên Cứu Trước Khi Nghiên Cứu
- Nhận Thức Đúng Về Đường Lây Và Tác Hại Của Bệnh Giun
- Sự Tái Nhiễm Giun Đũa Và Giun Móc/mỏ Tại Cộng Đồng Sau 02 Tháng, 04 Tháng Điều Trị Mebendazol Duy Nhất Một Viên 500Mg
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của Vũ Văn Vừng và Trần Tuấn Đạt (2008) [116], có tỷ lệ nhiễm giun chung 99,07%. Tình trạng nhiễm giun móc/mỏ ở cộng đồng dân tộc Ê đê rất nặng, theo nghiên cứu của Trần Văn Tràng (2007) [94] cho biết tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ 62,92%. Bệnh tập trung nhiều nhất ở người nông dân và người trồng cây công nghiệp 74,78%, tiếp theo là học sinh 46,49% và thấp nhất là ở cán bộ và
người buôn bán 38,10% [94].
Từ những công trình nghiên cứu trên cho chúng ta khái quát một số nguyên nhân gây nhiễm giun cao ở Đắk Lắk như sau:
- Tỷ lệ hộ gia đình không có nhà tiêu hợp vệ sinh khá cao 86,31% [20], chủ yếu nhà tiêu đào nông (là những hố đào có những cây gỗ bắc qua) cạnh gốc cà phê hay gốc tiêu, chắn bạt xung quanh, không có mái, không có chất độn phủ lên sau mỗi lần đi đại tiện. Người dân sử dụng với mục tiêu tạo điều kiện chăm sóc những cây kém phát triển trong vườn, sau đó rời sang gốc cây cà phê hoặc gốc tiêu khác kém phát triển hơn. Về mùa mưa hoặc buổi tối người dân không đi đại tiện vào nhà tiêu này mà đi ra chỗ khác gần nhà, do vậy tỷ lệ số hộ có người phóng uế xung quanh nhà chiếm tỷ lệ 72,5% (theo kết quả của bảng 3.9). Hiện tượng trên là điều kiện thuận lợi giun móc/ mỏ tồn tại và tăng tỷ lệ nhiễm ở cộng đồng.
- Tỷ lệ những đối tượng nghiên cứu trong cộng đồng không đi giày dép thường xuyên khi lao động chiếm tỷ lệ 68,1% (tại bảng 3.13). Nguyên do đặc điểm thổ nhưỡng của đất đỏ Bazan rất dính vào mùa mưa “khó đi”; để đi lại dễ dàng hơn người dân không đi giày hoặc dép khi lao động. Đây là yếu tố nguy cơ nhiễm giun móc/mỏ. Điều này có thể giải thích tại sao người dân tộc Ê đê cũng như các dân tộc Tây nguyên có tỷ lệ nhiễm giun cao hơn so với các vùng khác trong nước.
- Đối tượng nghiên cứu không thường xuyên rửa tay trước khi ăn, sau khi đại tiện là 79,4% (tại bảng 3.13); ngược lại những người khác có rửa tay thường xuyên thì họ lại rửa tay không sạch vì: Thiếu nước sạch; rửa tay không có xà phòng; rửa không kỹ bàn tay, ngón tay, kẽ ngón tay, móng tay và không có khăn sạch để lau khô tay. Do vậy bàn tay không sạch sẽ là một trong những yếu tố nguy cơ đã làm cho tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc tại địa bàn nghiên cứu cao hơn các tác giả khác trong nước.
- Đối tượng tại địa bàn nghiên cứu có tỷ lệ tự mua thuốc uống tẩy giun định kỳ 6 tháng/ lần rất thấp 22,5% (tại bảng 3.13).
- Người dân Ê đê có tỷ lệ thường xuyên uống nước lã chiếm 43% (kết quả bảng 3.13).
Một số nghiên cứu của tác giả khác trong nước có tỷ lệ nhiễm giun cao hơn nghiên cứu của chúng tôi:
Cấn Thị Cúc và CS (2005) [15], cho thấy người dân ở vùng đảo-ven biển tỉnh Quảng Ninh có tỷ lệ nhiễm giun chung là 94,9%; Lê Thị Tuyết (2002) [102] ở người dân tại xã Quỳnh Trang tỉnh Thái Bình, có tỷ lệ nhiễm giun đũa 94,3%, giun tóc 80,7% và Trương Quang Ánh nghiên cứu ở học sinh tiểu học Khánh Vĩnh – Nha trang [1]. Theo tác giả có một số nguyên nhân làm cho tỷ lệ nhiễm giun cao hơn là do người dân vẫn duy trì sử dụng phân người tươi bón cây trồng. Hiện tượng trên đã làm môi trường đất bị ô nhiễm nặng mầm bệnh như cường độ nhiễm trứng giun đũa trong đất rất cao 95% (có 61 trứng giun /100g đất) và giun tóc là 84,7% (21 trứng giun/100g đất), ngoài ra các đối tượng nghiên cứu có một số thực hành không tốt như không ăn chín có tỷ lệ từ 34,1%-54,9%, không uống nước đun sôi từ 79,8-81,8%, không rửa tay trước khi ăn, sau đại tiện từ 81-84,5% và không mua thuốc uống tẩy giun định kỳ 78,2-82%.
Theo nghiên cứu của Trịnh Trọng Phụng và CS (2002) [68] về người dân tại hai xã thuộc huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng có kết quả tỷ lệ nhiễm
giun đũa (84,9%), giun tóc (74,21%) cao hơn kết quả của chúng tôi. Theo tác giả nguyên nhân do người dân không nhận thức đúng về đường lây nhiễm giun (12,41%), do không hiểu biết về nơi chứa mầm bệnh (9,31%), do không hiểu biết tác hại của giun là (12,07%) và không hiểu biết về phòng chống giun (21,03%).
Kết quả nghiên cứu của Trương Thị Kim Phương và CS (2002) [69] về người dân tại một số xã Đông Anh, Hà Nội cho thấy tỷ lệ nhiễm giun chung 56,9%, tỷ lệ nhiễm giun đũa 39,7%, giun móc/mỏ 4,1% thấp hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Nguyên nhân do người dân không biết đúng nguyên nhân có thể gây nhiễm giun. Tỷ lệ hộ gia đình nơi đây dùng phân người tươi rất cao (82,3%); trong khi đó những hộ không dùng phân tươi có tỷ lệ nhiễm giun khá thấp (17,7%), đây là nguyên nhân chính đã làm gia tăng tỷ lệ nhiễm, tăng tỷ lệ tái nhiễm giun cho cộng đồng.
Theo nghiên cứu của Bùi Văn Hoan và CS (2002) [42] ở học sinh tiểu học huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ nhiễm giun chung là 79,6%, giun đũa 74,5% và giun móc/mỏ 26,4% có kết quả tương đương với chúng tôi, mặc dù đối tượng nghiên cứu của tác giả là học sinh tiểu học. Nguyên nhân do đại tiện ngoài nhà tiêu 11,4%, gia đình học sinh dùng phân người tươi bón cây trồng chiếm 17,2%, học sinh không rửa tay trước khi ăn 31%, không rửa tay sau khi đi đại tiện 42% và học sinh không đi giầy hoặc dép trong giờ ra chơi 92%.
Theo nghiên cứu của các tác giả ở phía Bắc có tỷ lệ nhiễm chung cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi là do có tỷ lệ nhiễm giun đũa và giun tóc cao; chính vì lý do đó làm cho tỷ lệ đa nhiễm của các tác giả cũng khác với kết quả của chúng tôi, theo nghiên cứu của Nguyễn Duy Toàn (2004) [90] có tỷ lệ nhiễm hai loại giun cao nhất 33,5%, đơn nhiễm 24,9% và ba loại giun 12,3%; tương tự theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hưng (2003) tỷ lệ nhiễm hai loại 70,3%, nhiễm một loại giun 24,4% và ba loại giun 5,1%.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Võ Hinh và CS (2005) [38], ở trẻ em vùng miền núi của huyện A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế có tỷ lệ nhiễm giun chung 66,18%, tỷ lệ nhiễm giun đũa 54,11% và giun móc/mỏ 36,47% tương đương với kết quả của chúng tôi. Mặc dù đối tượng nghiên cứu của tác giả là trẻ em nhưng vẫn có tỷ lệ nhiễm cao. Nguyên nhân là do vùng đồng bào dân tộc thiểu số người Pa Kô và Ka Tu có tỷ lệ hộ không có nhà tiêu hợp vệ sinh rất thấp 0,50 - 0,64 nhà tiêu hợp vệ sinh/hộ gia đình; nguồn nước sử dụng chính là nước giếng đào chiếm 41,4%, ngoài ra còn 24% sử dụng nước suối.
Tại bảng 3.3. Nhóm tuổi từ 2-5 tuổi có tỷ lệ nhiễm giun đũa cao nhất, chiếm 73,0% so với nhóm 6-11tuổi, 12-15 tuổi, 16-18 tuổi và thấp nhất là nhóm > 18 tuổi (53,1%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p <0,05. Kết quả nhiễm giun đũa của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Tâm (2005) [78], Nguyễn Xuân Thao (2006) [83] có tỷ lệ từ 9,58 đến 54%, sự khác biệt này có thể là người dân nơi nghiên cứu chưa được hưởng lợi từ chương trình Quốc gia về phòng chống giun. Ngược lại kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Phan Thị Hà (1992) [33], khi nghiên cứu trên một phạm vi rộng của 6 dân tộc Tây Nguyên có tỷ lệ giun đũa cao nhất ở nhóm 1-2 tuổi từ 30 đến 85%. So với các tác giả phía Bắc, tỷ lệ nhiễm giun đũa của chúng tôi thấp hơn Lê Thị Tuyết (2000) [101], khi nghiên cứu thực trạng nhiễm giun ở một số xã tỉnh Thái Bình có tỷ lệ nhiễm giun đũa từ 91,1-96%. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Duy Toàn (2004) [90] về hoạt động phòng chống giun sán trong các trường tiểu học của 39 huyện ở 11 tỉnh trong nước cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa thấp nhất là thành phố Cần Thơ là 19,7% và cao nhất là Lục Yên, tỉnh Yên Bái 98,4%. Theo tác giả sự khác biệt trên phụ thuộc vào thực hành rửa tay trước khi ăn, sau đi đại tiện; thường xuyên đi giày hoặc dép; thực hành ăn chín uống sôi; đặc biệt là phụ thuộc vào sự quan tâm của cha mẹ thường xuyên cho uống thuốc tẩy giun định kỳ. Như
vậy yếu tố uống thuốc tẩy giun định kỳ sẽ là một trong những biện pháp quan trọng quyết định đến tỷ lệ nhiễm giun.
Tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ phân theo nhóm tuổi ở bảng 3.3. cho thấy: nhóm tuổi từ 2-5 tuổi có 10,3% thấp nhất so với nhóm tuổi 6-11 (17,0%), nhóm 12-15 (22,0%) và nhóm cao nhất là >18 tuổi (46,7%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ tại địa bàn nghiên cứu khá cao, tỷ lệ tăng dần theo nhóm tuổi, cao nhất là nhóm >18 tuổi (46,7%). Tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ nơi nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu Phan Văn Trọng (25,1-72,5%) [97],[98]. Theo tác giả tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ ở cộng đồng Tây Nguyên tăng dần theo nhóm tuổi, vì thời gian tiếp xúc với đất canh tác nhiều sẽ có nguy cơ tăng gấp 3,12 lần so với người ít tiếp xúc với đất canh tác [97],[98].
Tỷ lệ nhiễm giun theo giới, tại bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc và giun móc/mỏ không có sự khác biệt theo giới. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả của Trần Thị Thanh (1998) [81], Phan Văn Trọng (2002) [98] và Vũ Đức Vọng (1996) [112]. Tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ ở người dân tộc Tây Nguyên không có sự khác biệt theo giới, sự khác biệt này là do phụ thuộc nhiều vào công việc lao động tiếp xúc với đất canh tác (yếu tố gây nhiễm giun móc/mỏ) và một số thói quen không hợp vệ sinh (yếu tố gây nhiễm giun đũa, giun tóc). Điều này có thể nói rằng trong gia đình cộng đồng Tây Nguyên không có sự phân công lao động giữa nam giới và nữ giới, mọi thành viên trong gia đình đều tham gia lao động, sự tham gia này phụ thuộc vào khả năng, thời gian của từng thanh viên sẽ có tỷ lệ nhiễm khác nhau. Người phụ nữ Ê đê có thói quen điệu con lên rẫy cùng chồng, do đó tỷ lệ này không những xảy ra cho mẹ mà cả con. Theo nghiên cứu của Trần Thị Thanh (1998) những người thường xuyên đi chân đất có nguy cơ nhiễm giun gấp 39,17 lần [81] so với người không thường xuyên đi chân đất. Trẻ em thường
xuyên theo cha mẹ ra nương rẫy có nguy cơ nhiễm giun gấp 4,79 lần [81] so với trẻ ở nhà.
Thói quen đi chân đất khi lao động, thói quen uống nước lã thường xuyên rất phổ biến ở người dân tộc Ê đê, do điều kiện nơi lao động ngoài nương rẫy không có nước sạch để uống, thì làm sao có nước sạch để rửa tay trước khi ăn hoặc sau khi đi cầu.
Người dân tộc làm rẫy xa nhà, đi từ sáng sớm đến tối mới về, cường độ lao động của người Ê đê khá nặng nhọc, theo nghiên cứu của Vũ Đức Vọng (1995) cho thấy lao động của người dân tộc Ê đê thuộc vào loại tiêu hao năng lượng loại nặng: Ví dụ người dân tộc Êđê trong công việc xới cỏ đối với nữ là
6.430 Kcal/mm; nam là 5.340 Kcal/mm, điều này chứng tỏ trong lao động cần phải cố gắng bởi vì công cụ lao động rất thô sơ, thủ công. Khi xét nghiệm nước mồ hôi, nước tiểu của người dân lao động đã xác định được cường độ bài tiết mồ hôi khá cao từ 0,21 - 0,37 lít/h và cường độ bài tiết nước tiểu trung bình là 22 - 25 ml/h [113]. Trong khi đó nước uống bù đắp chưa đủ, chỉ đạt 66-68% theo nhu cầu, hiện tượng này được thể hiện qua thử nghiệm Donaggio, cho thấy có 93-100% đối tượng có lượng Mucoprotein bài tiết trong nước tiểu 24 giờ/300mg [113]. Qua đây cho thấy môi trường lao động của người dân tộc Ê đê là rất thiếu nước uống.
Kết quả nhiễm giun móc/mỏ của luận án này thấp hơn Vũ Đức Vọng (1996), trong cộng đồng dân tộc của 4 tỉnh Tây Nguyên có tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ 52,7% so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi 37,2% [112], như vậy tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ thay đổi từng vùng và từng nghề nghiệp.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2004) [12], tại tỉnh Gia Lai ở học sinh tiểu học người dân tộc Bahnar, Jrai cho thấy tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ 60,1% là rất cao so với kết quả nghiên cứu của luận án này, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Qua đây cho biết tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ ở Tây Nguyên không những phụ thuộc nghề nghiệp mà còn phụ
thuộc vào môi trường đất, môi trường đất và điều kiện tự nhiên thích hợp là yếu tố giúp trứng và ấu trùng giun móc/mỏ phát triển ở ngoại cảnh; có như vậy mới cho phép ta giải thích tại sao học sinh tiểu học có tỷ lệ nhiễm cao như trên.
Trong kết quả nghiên cứu của luận án này có tỷ lệ nhiễm giun chung 75,1%, đây là một con số không phải là thấp. Một số nguyên nhân cần chú ý đến đó là:
- Tỷ lệ hộ gia đình không có nhà tiêu hợp vệ sinh chiếm 72,5%, trong đó chủ yếu là những nhà tiêu đào nông đang phổ biến tại cộng đồng Ê đê.
- Không có nhà tiêu hợp vệ sinh, người dân đi đại tiện ngoài nhà tiêu có tỷ lệ khá cao 72,5%.
- Trong quá trình lao động có 68,1% không đi giày hoặc dép khi tiếp xúc với phân hoặc đất.
- Người dân chưa có thói quen tự mua thuốc tẩy giun chiếm tỷ lệ khá cao 57,1%.
Hiện nay người dân ở vùng sâu, vùng xa được Đảng và Nhà nước quan tâm, dưới nhiều hình thức như: Chương trình 132, 134 về nhà ở, đất ở, đất sản xuất cho các hộ người dân tộc thiểu số; Chương trình 135 đầu tư xây dựng giao thông, thủy lợi, trường học, điện sinh hoạt, chợ,...ở những vùng khó khăn; Chương trình 168 về cấp sách giáo khoa, giấy vở viết cho học sinh dân tộc thiểu số; Chương trình 139, cấp thuốc chữa bệnh miễn phí cho đồng bào dân tộc thiểu số và hộ nghèo.
Nhưng đến nay vẫn chưa cải thiện được vệ sinh môi trường trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ gia đình không có nhà tiêu hợp vệ sinh còn cao. Thực hành vệ sinh cá nhân của người dân tại các buôn nghiên cứu rất kém, nói chung người dân ít hiểu biết và ít quan tâm đến xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh, vệ sinh cá nhân, sức khỏe của bản thân. Hiện tại người dân Ê đê nơi đây đã nghèo, nay lại khó khăn hơn, phần nhiều do các bệnh của vùng,