hiện tượng của văn học Việt Nam ở nửa sau thế kỷ XX. Với quan niệm “nhà văn phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh”, Nguyễn Minh Châu đã khắc khoải về nhân sinh để đi tìm những “hạt ngọc” cho đời. Là một nhà văn suốt đời khao khát đi tìm cái đẹp và sự chân thật của cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông có một vị trí đặc biệt quan trọng - người “tiền trạm đổi mới” (Phong Lê), “người mở đường đầy tài hoa và tinh anh” (Nguyên Ngọc) trong nền văn học đương đại Việt Nam. Còn Nguyễn Khải lại được đánh giá là một trong số ít người viết mà đời người, đời văn có mối liên quan chặt chẽ. Suốt nửa thế kỷ lao động sáng tạo, ngòi bút của ông đã gắn bó với lịch sử dân tộc. Bằng cái nhìn đa chiều, đa diện, Nguyễn Khải thể hiện trong sáng tác của mình nhãn quan tỉnh táo trước hiện thực đời sống. “Muốn hiểu con người thời đại với cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, phải đọc Nguyễn Khải” [20, tr. 61]. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là cây bút chuyên nghiệp đầy bản lĩnh và tài năng. Con người trước lăng kính tâm hồn nhà văn không chỉ là đối tượng ngợi ca mà còn là tiêu điểm để “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn” (Lã Nguyên).
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là những đại biểu tinh anh của phong trào đổi mới văn học sau 1975. Họ là những cây bút trưởng thành trong chiến tranh và trở về từ chiến tranh nhưng trong bối cảnh đổi mới, họ vẫn là những tác giả có nhiều bạn đọc. Cả ba nhà văn đều là những tấm gương lao động sáng tạo và được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh - giải thưởng cao quý về văn học nghệ thuật.
Với những lí do như vậy, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài: “Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng)”. Ở luận án này, chúng tôi tiếp cận truyện ngắn của ba tác giả tiêu biểu thuộc thế hệ “3X” (Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, Nguyễn Khải sinh năm 1930 và Ma Văn Kháng sinh năm 1936) có cùng một hành trình, cùng một khởi điểm, cùng chung một mô hình sáng tác của cùng một thế hệ nhà văn (mở đầu cho văn học đổi mới và đều viết theo lối cách tân trên nền truyền thống) từ góc nhìn thi pháp để thấy được sự chuyển động của thể loại truyện ngắn trong bối cảnh mới của đời sống văn học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rò nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng ở phương diện ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật.
- Tìm ra những điểm chung của thế hệ, điểm riêng trong phong cách của từng tác giả và khẳng định đóng góp của ba nhà văn trong sự vận động, đổi mới thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng - 1
- Những Công Trình Nghiên Cứu Về Nghệ Thuật Tự Sự Trong Truyện Ngắn Sau 1975 Của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
- Những Công Trình Nghiên Cứu Về Nghệ Thuật Tự Sự Trong Truyện Ngắn Sau 1975 Của Nguyễn Khải
- Một Số Vấn Đề Cơ Bản Của Tự Sự Học
Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.
- Vận dụng lý thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng của các tác phẩm, thấy được điểm chung, điểm riêng của ba nhà văn trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
- Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong thế đối sánh với truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để chỉ ra những nét riêng biệt, những thành công và giới hạn của thế hệ nhà văn trưởng thành trong chiến tranh, thấy được đặc điểm truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn tự sự.
- Thông qua việc tìm hiểu sự đổi mới mô hình tự sự của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định diện mạo tinh thần, vai trò, vị trí của họ trong sự vận động của thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các bình diện cơ bản như ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự bao gồm nhiều phương diện. Ở luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. Đó là những yếu tố nổi bật tạo nên phong cách nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.
- Phạm vi tư liệu:
+ Đề tài chủ yếu khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhưng tập trung vào những sáng tác sau 1975. Đặc biệt, chúng tôi chú ý những tác phẩm trong tuyển tập truyện ngắn của ba nhà văn: Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (2006) của Nhà xuất bản Văn học; Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (2007) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn; Truyện ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng (2002) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
+ Một số truyện ngắn tiêu biểu của các nhà văn cùng thế hệ và khác thế hệ (các nhà văn “6X”, “7X”, “8X”, “9X”) để so sánh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp tiếp cận tự sự học
Vận dụng lí thuyết tự sự để phân tích, lí giải những cách tân đổi mới trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.
4.2. Phương pháp thống kê
Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó có thể đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của ba nhà văn mà luận án quan tâm.
4.3. Phương pháp hệ thống
Phương pháp này giúp chúng tôi nhìn truyện ngắn của ba nhà văn như một hệ thống và đặt nó trong hệ thống lớn hơn là tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời có thể đưa ra đánh giá về những đóng góp và giới hạn trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng một cách khách quan và toàn diện.
4.4. Phương pháp loại hình, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
Nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình về phương diện nghệ thuật trần thuật, chỉ ra các kiểu, dạng NKC, phương thức trần thuật và giọng điệu trần thuật… từ góc nhìn thể loại.
4.5. Phương pháp so sánh
Để có cái nhìn sâu hơn về đối tượng nghiên cứu, chúng tôi so sánh truyện ngắn của ba nhà văn với nhau và với truyện ngắn của các nhà văn khác, đồng thời đối
chiếu truyện ngắn của ba nhà văn ở hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975. Từ đó, chỉ ra những vận động về nghệ thuật trần thuật.
4.6. Phương pháp tổng hợp
Phương pháp này giúp chúng tôi đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích ngữ liệu cụ thể.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án vận dụng những thành tựu nghiên cứu tự sự học trên thế giới và ở Việt Nam để mô tả, phân tích sâu một số phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự như: ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm. Từ đó, người viết xác định điểm tương đồng và khác biệt trong nghệ thuật tự sự và trong phong cách nghệ thuật của ba tác giả.
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của nhóm tác giả đã có vị trí và đóng góp to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện - đương đại. Trên cơ sở nghiên cứu đó, người viết khẳng định sự đổi mới và những thành công về tổ chức tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn “gạo cội” - tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn mở đường của nền văn học Việt Nam từ sau 1975.
- Từ thực tiễn sáng tác của ba nhà văn, từ sự đối chiếu, so sánh truyện ngắn của họ ở hai giai đoạn trước - sau 1975 và so sánh với truyện ngắn của các nhà văn khác, luận án chỉ ra sự vận động và đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
- Luận án góp một tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở các trường đại học, cao đẳng, trung học.
6. Cấu trúc của luận án
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Một số vấn đề cơ bản của tự sự học. Khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Chương 3: Ngôi kể và điểm nhìn trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
Chương 4: Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự
Tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện đại” [165, tr. 11]. Chủ nghĩa hình thức Nga với những tên tuổi V. Shklovski (1893 - 1984), B. Eikhenbaum (1886 - 1959), B. Tomachevski (1890 - 1957)… đã đặt nền móng cho những cơ sở ban đầu của lí thuyết tự sự. Họ đề cập đến nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự sự ở phương diện lí thuyết như: kết cấu tác phẩm, cốt truyện, nhân vật hay nghệ thuật tổ chức thời gian…
B. Tomachevski vốn là một nhà phê bình thơ nhưng với tiểu luận Hệ chủ đề, ông đã trở thành người đầu tiên nghiên cứu thủ pháp của cốt truyện. Ông phân biệt khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sujet): “tuyến hành động liên quan đến chuyện kể còn tuyến trần thuật liên quan đến cốt truyện ” (dẫn theo [165, tr. 30]). Ông phân biệt “thời gian của chuyện kể” và “thời gian trần thuật”, đồng thời trình bày nhiều thủ pháp như: trì hoãn, bình luận ngoại đề, che giấu bí mật, đảo lộn thời gian…
V. Shklovski qua các tiểu luận Nghệ thuật như là thủ pháp, Cấu trúc của truyện ngắn và tiểu thuyết… cho rằng: “Nhiều tác phẩm tự sự là một tổ hợp các kết cấu vòng tròn và kết cấu bậc thang, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành những tầng nấc kế tiếp nhau” (dẫn theo [165, tr. 31]). Ông còn nói đến “thủ pháp đóng khung và thủ pháp xâu chuỗi” (dẫn theo [165, tr. 32]) trong văn tự sự.
B. Eikhenbaum trong tiểu luận Về lí thuyết văn xuôi đã cho rằng: “Truyện ngắn là hình thức sơ yếu của văn xuôi”, “nhà văn thường xây dựng truyện ngắn trên cơ sở một mâu thuẫn, một tan vỡ, một sai lầm hay một tương phản” (dẫn theo [165, tr. 34]).
Chủ nghĩa hình thức Nga đặt viên gạch đầu tiên cho lí thuyết tự sự học nhưng góp phần hình thành bộ môn tự sự học thì phải kể đến Chủ nghĩa cấu trúc với những tên tuổi như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette… Chủ nghĩa cấu trúc đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. R.Barthes mở đầu với công trình Dẫn luận
phân tích tác phẩm tự sự (1968) và S/Z (1970) (tác phẩm này đã bắt đầu chuyển sang hậu cấu trúc chủ nghĩa). Todorov là một trong những người đầu tiên đề xuất thuật ngữ tự sự học với chuyên luận Thi pháp văn xuôi. Todorov còn có công trình Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”… Từ góc độ ngữ pháp, Todorov coi “nhân vật như danh từ, tình tiết là động từ” (dẫn theo [165, tr. 14]), G. Genette thì tuyên bố “mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu” (dẫn theo [165, tr. 14]), R. Barthes cũng tán thành quan điểm đó… Như vậy, mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là “nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự” (dẫn theo [165, tr. 14]).
Tiếp theo phải kể đến các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M. Bakhtin, I. U. Lotman, B. Uspenski… Các tác giả này quan tâm đến các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở (Jean - Claude Coquet). Hình thức tự sự chính là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm.
Tổng quan quá trình nghiên cứu của lí thuyết tự sự, nhà lí luận Mĩ Gerald Prince đã chia làm ba nhóm theo ba loại hình như sau: Nhóm thứ nhất (gồm những nhà tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V. Propp, Todorov, Barthes, Remak, Norman Friedman, Northrop Frye, Etienne Souriau…) chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng biểu đạt của chất liệu; nhóm thứ hai (gồm G. Genette, Dolezel, Micke Bal…) xem nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ biểu đạt và vai trò của người trần thuật là quan trọng nhất; nhóm thứ ba (đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman) lại coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể.
Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của cấu trúc tự sự với các vấn đề cần phải tìm tòi, suy ngẫm như vấn đề NKC, điểm nhìn, dòng ý thức, không gian, thời gian, giọng điệu nghệ thuật… Lí thuyết tự sự sẽ giúp cho ta nghiên cứu nghệ thuật tự sự của các thể loại nói chung và của từng tác phẩm văn học cụ thể nói riêng, qua đó cho thấy cả truyền thống văn học, văn hoá của mỗi dân tộc.
Ở Việt Nam, năm 2001, hội thảo quy mô toàn quốc về tự sự học đã được tổ chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong bài viết Tự sự học - một bộ môn
nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon, Aritoste, Tz. Tododov, Genette… Qua đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự sự học. Trong công trình Dẫn luận thi pháp học [167], Trần Đình Sử đã xác định vị trí của thi pháp học trong khoa nghiên cứu văn học, đối tượng phạm trù và phương pháp nghiên cứu thi pháp, ông tập trung đi sâu hệ thống, cắt nghĩa những khái niệm thuộc về trần thuật học như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian - không gian nghệ thuật, tác giả và kiểu tác giả, tính quan niệm và cấu trúc thể loại, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn từ nghệ thuật…
Trần thuật học - Nhập môn lí thuyết trần thuật học của tác giả Manfred Jahn công bố vào ngày 28 - 07 - 2003 [131], đăng tải trên trang web http://www.uni- koeln.de đã xây dựng một hệ thống những khái niệm nền tảng về truyện kể và chỉ ra cách sử dụng chúng khi phân tích tác phẩm. Những định nghĩa này được dựa trên một loạt bài nhập môn cổ điển như cấu trúc của trần thuật, kể chuyện tiêu điểm và tình huống trần thuật, thì, thời và thức trần thuật, nhân vật và diễn ngôn…
Cao Kim Lan trong bài viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và
R. Kellogg [113] đã dựa vào cuốn Bản chất của tự sự (The nature of Narrative, Oxford University, tái bản 1968) để giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi phối của điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của NKC với điểm nhìn của nhân vật, điểm nhìn của NKC và điểm nhìn của người đọc…
Lê Phong Tuyết trong bài Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật [201] đã giới thiệu về Genette và lí thuyết của ông một cách hệ thống với những khái niệm liên quan đến trần thuật. Trong đó, tác giả tập trung làm rò hai vấn đề mới mẻ với giới nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam là tình huống trần thuật và người nghe chuyện.
Một trong những công trình có ý nghĩa lớn với việc giới thiệu lí thuyết tự sự vào Việt Nam đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [165] do Trần Đình Sử chủ biên. Trong đó, Phan Thu Hiền có bài viết Về lí thuyết tự sự của Northrop Frye [165, tr. 56 - 70]. Tác giả giới thiệu Northrop Frye là đại biểu quan
trọng có ảnh hưởng sâu sắc nhất của lí thuyết Phê bình huyền thoại (Mythcritic) còn gọi là lí thuyết Phê bình nguyên mẫu (archetypal critism) với quan niệm cho rằng mục tiêu của văn chương là đạt đến sự giới thiệu, sự trình bày cuộc sống. Nguyễn Đức Dân giới thiệu về Greimas trong bài Greimas - Người xây nền cho trường phái kí hiệu học Pháp [165, tr. 39 - 55] với mô hình vai hành động, cấu trúc cơ sở của nghĩa, mô hình cấu tạo.
Tiếp theo, đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử (Tập 1 và tập 2) [166] cũng do Trần Đình Sử chủ biên. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến bài viết Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật của Phương Lựu, Người kể chuyện - nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự [165, tr. 196 - 208] của Nguyễn Thị Hải Phương, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong truyện kể của Đặng Anh Đào [165, tr. 169 - 178]. Qua những bài viết này, các tác giả đã góp phần làm rò các khái niệm tự sự học như: NKC, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn…
Như vậy, lí thuyết tự sự luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nó có vai trò quan trọng và cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm văn xuôi. Ở Việt Nam, ngoài những tác phẩm dịch thuật, ít có công trình nghiên cứu sâu về nghệ thuật tự sự từ phương diện lí thuyết. Giới nghiên cứu tự sự tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về các phương diện của tự sự như: thời gian và không gian trần thuật, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, tình huống trần thuật, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn… Nói tóm lại, tất cả các thành phần của nghệ thuật tự sự đều được các học giả nghiên cứu và làm rò qua các tác phẩm văn học.
1.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi được tiếp xúc nhiều với bài viết và công trình lý luận có quy mô khác nhau. Trước thành tựu của công cuộc đổi mới văn học dân tộc sau 1975, đặc biệt là thể loại truyện ngắn, các nhà nghiên cứu phê bình đã tập trung bút lực nhằm giúp bạn đọc tiếp cận và thẩm định những cách tân mới mẻ trong “bước ngoặt” của dòng chảy văn học hiện đại Việt Nam.