- Công tác tiếp thị, quảng bá cho DLST hầu như chưa được triển khai.
- Chưa động viên và thu hút nhiều thành phần kinh tế với các nguồn lực phong phú, đa dạng cho phát triển DLST.
- Công tác tổ chức, quản lí và điều hành hoạt động DL còn chồng chéo, bất cập. Chưa có cơ quan chuyên trách nào của Chính phủ về DLST, chưa có Hiệp hội DLST của Việt Nam [12].
1.2.2. Ở Tây Nguyên
Tây Nguyên có hệ thống sông suối dày đặc, nhiều ghềnh thác hùng vĩ. Rừng là một nguồn tài nguyên lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển DLST ở Tây Nguyên. Tây Nguyên có nhiều VQG và KBTTN lớn như Chư Yang Sin, Yok Đôn, Chư Mon Ray, Kon Chư Răng, Kon Ka Kinh, Tà Đùng, Cát Tiên, Bidoup. Đây là vùng có nhiều HST điển hình (HST rừng khộp ở Yok Đôn, HST đất ngập nước ở Hồ Lắk, HST vùng núi cao ở Ngọc Linh, Bidoup - Núi Bà) và cũng là nơi được thế giới công nhận về tính ĐDSH cao.
Bên cạnh những giá trị tự nhiên trên, Tây Nguyên còn có hệ thống các buôn, bon, làng, play cổ truyền của đồng bào các dân tộc ít người, nơi còn giữ những đặc điểm cấu trúc, sinh hoạt văn hoá truyền thống như làng Kon Kơ Tu, làng Kon Du, làng Kon Sôi (Kon Tum), làng Đê K’tu (Gia Lai), buôn Akô D’hông, buôn Jun (Đắk Lắk) và các buôn, bon của người M’nông, người Mạ, người Cơho ở các tỉnh Đắk Nông, Lâm Đồng. Ngoài các sinh hoạt văn hoá truyền thống những nơi này còn giữ được các nghề thủ công cổ truyền nổi tiếng như nghề dệt thổ cẩm, nghề đẽo tượng, nghề đan lát mây tre,… Nhiều lễ hội và sinh hoạt văn hoá đặc sắc có ở hầu hết các dân tộc Tây Nguyên mà du khách rất muốn tìm hiểu, khám phá như lễ hội đâm trâu, lễ hội tang ma, lễ cúng bến nước, hội voi, tục uống rượu cần,… cùng với nhiều di sản văn hoá vật thể như nhà Rông, nhà Dài, cồng chiêng, nhà mồ,… rất thu hút du khách. Ở Tây Nguyên còn bảo tồn được các sinh hoạt truyền thống của cộng đồng các dân tộc, tạo tính hấp dẫn đặc biệt đối với khách DL.
Dựa trên cơ sở tiềm năng này, Tây Nguyên đã hình thành một số LHDL như: DL dã ngoại, tham quan, nghỉ dưỡng núi, hồ; DL tìm hiểu nghiên cứu theo chuyên đề sinh thái, lịch sử, khảo cổ, văn hóa, DL MICE (DL hội nghị, hội thảo,...) và một số SPDL cụ thể đang khai thác hiện nay gồm: Festival hoa Đà Lạt, Lễ hội cà phê (Buôn Mê Thuột); Nghỉ dưỡng ven hồ, vùng đất ngập nước và núi; Thăm vùng văn hoá các dân tộc Tây Nguyên mang âm hưởng của núi rừng (Chương trình đua voi, thưởng thức cồng chiêng Tây Nguyên,...).
Trong những năm qua, ngành DL (mà chủ yếu là hoạt động DLST) các tỉnh Tây Nguyên đã có những bước đi vững chắc. Các cơ sở DL của các tỉnh được nâng cấp cả về mặt số lượng và chất lượng. Hoạt động DL duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Tại tỉnh Đắk Lắk, riêng tháng 10-2012, tổng doanh thu DL đạt
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Theo Hướng Bền Vững
- Các Điều Kiện Phát Triển Du Lịch Sinh Thái
- Thực Tiễn Phát Triển Dlst Ở Việt Nam Và Vùng Tây Nguyên
- Tiềm năng và định hướng phát triển du lịch sinh thái tỉnh Đắk Lắk theo hướng bền vững - 7
- Đánh Giá Chung Về Tndlst Của Tỉnh Đắk Lắk
- Chính Sách Và Chiến Lược Phát Triển Dl
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
23.5 tỉ đồng, tăng 1.2% so với cùng kỳ năm 2011, công suất sử dụng buồng phòng đạt 60%. Hay tỉnh Lâm Đồng, năm 2012 đã đón gần 100000 khách,… Tỉnh Gia Lai, năm 2011, tổng lượng khách đến Gia Lai đạt 173679 lượt, tăng 8.5% so với năm trước đó, trong đó, khách quốc tế đạt 8755 lượt, tổng doanh thu DL đạt 157307 tỉ đồng, tăng 26.4% so với năm 2010… Và sự kiện đáng lưu ý, thể hiện sự phát triển của DL nói chung và DLST Tây Nguyên nói riêng đó là các hoạt động trong Chương trình năm DL quốc gia năm 2014 - Tây Nguyên - Đà Lạt đã diễn ra từ tháng 2 năm 2014 đến hết năm 2014.
Tuy nhiên ngoài những tồn tại chung của DLST ở Việt Nam, DLST ở Tây Nguyên còn có những điểm đáng lo ngại là sự suy giảm đáng báo động về diện tích rừng, sự hạn chế về CSVC - KT DL và công tác xúc tiến, quảng bá DLST.
Chương 2. TIỀM NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Tổng quan về tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk, Darlac hay Đắc Lắc (theo tiếng M'Nông: Đăk = nước; Lăk = hồ) là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, lãnh thổ giới hạn bởi tọa độ từ 12o09’45” đến 13o25’06” Vĩ độ Bắc và từ 107o28’57” đến 108o59’37” Kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng phía Tây Nam giáp tỉnh Đắk Nông, phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia.
35
Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Lắk (Nguồn: Internet)
Tỉnh Đắk Lắk được tái lập vào ngày 26 tháng 11 năm 2003, trên cơ sở tách tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh mới là Đắk Lắk và Đăk Nông. Đắk Lắk được xem là “Thủ phủ Tây Nguyên”, là “Thủ phủ cà phê” và là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loạiTỉnh lỵ của Đắk Lắk là TP. Buôn Ma Thuột, nằm cách TP. Hồ Chí Minh 350 km. Trung tâm thành phố là điểm giao cắt giữa quốc lộ 14 (chạy xuyên suốt tỉnh theo chiều từ Bắc xuống Nam) với quốc lộ 26 và quốc lộ 27 nối Buôn Ma Thuột với các TP. Nha Trang (Khánh Hoà), Đà Lạt (Lâm Đồng) và Plei ku (Gia Lai).
Hiện nay, Đắk Lắk có diện tích 13125 km2, 15 đơn vị hành chính gồm:
TP.Buôn Ma Thuột, thị xã Buôn Hồ và 13 huyện: Ea H’leo, Ea súp, Krông Năng, Krông Búk, Buôn Đôn, Cư M’ Gar, Ea Kar , M’ Đrăk, Krông Pắk, Krông Ana, Krông Bông, Lắk, Cư Kuin, với 184 xã, phường và thị trấn.
Với những đặc điểm trên tỉnh Đắk Lắk ngoài vị trí thuận lợi về giao lưu kinh tế còn có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường không những vùng Tây Nguyên mà còn đối với cả nước.
2.1.1. Khái quát tự nhiên
Đắk Lắk là một tỉnh cao nguyên, địa hình đa dạng với đồi núi xen kẽ bình nguyên và thung lũng, bề mặt thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc.
Do vị trí địa lí và địa hình nên khí hậu ở Đắk Lắk vừa chịu sự chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang tính chất của khí hậu cao nguyên mát dịu,
Trên địa bàn tỉnh có 2 hệ thống sông chính chảy qua. Đó là hệ thống sông Sêrêpôk và hệ thống sông Ba. Thủy chế của các sông ở Đắk Lắk phụ thuộc vào chế độ mưa và thay đổi theo vùng. Chế độ lũ trong tỉnh chịu sự chi phối mạnh mẽ của hai sông Krông Knô và Krông Ana.
Đắk Lắk là tỉnh có độ che phủ rừng lớn nhất cả nước và cũng là một trong 12 trung tâm ĐDSH của cả nước, với hệ động thực vật đa dạng, nhất là hệ động thực vật ở các VQG và KBTTN.
2.1.2 Khái quát về kinh tế - xã hội
Dân cư, dân tộc:
Dân số tỉnh Đắk Lắk năm 2013 là 1827800 người, đạt mật độ 139 người/km2[3]. Dân số phân bố không đều trên lãnh thổ, tỉ lệ dân nông thôn cao. Trên địa bàn tỉnh có 47 dân tộc cùng chung sống, trong đó người Kinh chiếm 72%, các dân tộc ít người như Êđê, M’nông, Thái, Tày,... chiếm 28%. Mỗi dân tộc có những nét đẹp văn hoá riêng. Đặc biệt là văn hoá truyền thống của các dân tộc Êđê, M’nông … với những lễ hội cồng chiêng, đâm trâu, đua voi; kiến trúc nhà sàn, nhà rông; các nhạc cụ lâu đời nổi tiếng như các bộ cồng chiêng,
đàn đá, đàn T’rưng; các bản trường ca Tây Nguyên ... là những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể quý giá. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hóa của Đắk Lắk.
Hiện nay, trình độ dân trí và chất lượng nguồn lao động của tỉnh còn thấp; tỉ lệ lao động được đào tạo chưa cao, mới đạt 37% vào năm 2010 [23]; thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề và cán bộ tổ chức quản lí. Đây là một trong những hạn chế của tỉnh trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh trong giai đoạn tới.
Kinh tế:
Trong giai đoạn 2006-2010, Đắk Lắk duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định (phụ lục 6).
Tăng trưởng giá trị tổng sản phẩm (giá so sánh 1994) bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 ước đạt 12.1%. Trong đó, tăng trưởng ngành dịch vụ đạt 22.19% - cao nhất trong chỉ số tăng trưởng của 3 khu vực kinh tế. Năm 2013, ngành dịch vụ vẫn tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao nhất này.
Tính đến hết năm 2013, sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản vẫn giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Trong đó, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn 45.2% trong nền kinh tế của tỉnh.
Thu nhập bình quân đầu người cũng được cải thiện đáng kể, năm 2013 đạt
27.68 triệu đồng/người.
Trong sự phát triển KT-XH của tỉnh có sự đóng góp một phần không nhỏ của ngành DL. Tuy mới bắt đầu phát triển trong khoảng một thập niên trở lại đây nhưng với những tiềm năng, lợi thế so sánh của mình về DL, ngành DL Đắk Lắk đã có những bước phát triển vượt bậc, mở ra khả năng trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Đắk Lắk.
2.2. Tiềm năng phát triển DLST ở tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Tài nguyên du lịch sinh thái
TNDLST của Đắk Lắk đa dạng, giá trị cao, có khả năng tạo thành những SPDL hấp dẫn du khách. Các TNDLST nổi bật của Đắk Lắk bao gồm:
2.2.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Địa hình:
Nằm trên sườn Tây Nam của dãy Trường Sơn, địa hình Đắk Lắk khá đa dạng, với sự xen kẽ các thung lũng, cao nguyên, núi cao và trung bình. Bề mặt địa hình thấp dần từ Đông Nam lên Tây Bắc.
Địa hình núi cao chiếm khoảng 35% diện tích tự nhiên, tập trung ở phần Nam và Đông Nam của tỉnh, với độ cao trung bình 1000 - 1200 m. Trong đó có đỉnh Cư Yang Sin cao 2442m, Chư H’mu cao 2051m, Chư Dê 1793m, Chư Yang Pel 1600m.
Địa hình cao nguyên bằng phẳng nằm ở giữa tỉnh, chiếm khoảng 53% diện tích tự nhiên, có độ cao trung bình 450m. Phần diện tích tự nhiên còn lại là vùng thấp, bao gồm những bình nguyên ở phía Bắc tỉnh và ở phía Nam TP.Buôn Ma Thuột, đại diện có 2 cao nguyên lớn là:
- Cao nguyên Buôn Ma Thuột nằm ở trung tâm của lãnh thổ, độ cao trung bình từ 450m - 500m, diện tích khoảng 371km², chiếm 28.4% diện tích tự nhiên của tỉnh. Cao nguyên này có thế mạnh chính về cây công nghiệp, đặc biệt cà phê.
- Cao nguyên M’Đrắk nằm ở phía Đông tỉnh, tiếp giáp với tỉnh Khánh Hòa, độ cao trung bình từ 450m - 500m, địa hình gồ ghề với các dãy núi cao ở phía Đông và Nam.
Địa hình bán bình nguyên Ea Súp là vùng đất rộng lớn nằm ở phía Tây tỉnh, tiếp giáp với các cao nguyên. Bề mặt ở đây bị bóc mòn, có địa hình khá bằng phẳng, độ cao trung bình khoảng 180m, có một vài dãy núi nhô lên như Yok Đôn, Chư M’Lanh,…
Đây là nét độc đáo trong cấu trúc địa hình Đắk Lắk để khai thác, phát triển DL. Vì vậy, khi du khách đến Đắk Lắk sẽ được tham gia nhiều loại hình DLST dựa vào địa hình như: leo núi, thám hiểm và cắm trại. Đồng thời, các con sông chảy qua các bậc địa hình khác nhau tạo thành nhiều thác nước đẹp, đáp ứng nhu cầu tham quan nghỉ dưỡng, và thể thao của du khách.
Tài nguyên khí hậu:
Khí hậu ở Đắk Lắk mang tính chất của khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng cao nguyên, với không khí mát dịu.
Thời tiết chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong mùa này độ ẩm giảm, gió Đông Bắc thổi mạnh. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 20 - 240C, thấp hơn các tỉnh có cùng vĩ độ ở miền Trung. Tháng nóng nhất và lạnh nhất chênh lệch nhau chỉ hơn 50C.
Lượng mưa trung bình hàng năm đạt khoảng 1600 mm - 1800 mm. Độ ẩm không khí trung bình năm khoảng 82%. Tổng số giờ nắng bình quân hằng năm khá cao, khoảng 2139 giờ nên rất thuận lợi cho việc khai thác và phát triển loại