và sinh sôi trong đời sống, còn cái thiện, cái tốt mặc dù có nhưng có lẽ chưa đủ mạnh để có thể chiến thắng" [12,77].
Đến với tiểu thuyếtCôi cút giữa cảnh đời (1998) - tác phẩm mà nhà văn tâm đắc nhất, đã có không ít ý kiến xung quanh tác phẩm. Giáo sư Phong Lê trong cuốn Vẫn chuyện Văn và Người - Nhà xuất bản Văn ho á thông tin năm 1989 cho rằng: "Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ đó như nhiều cuốn sách khác. Nó thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân hậu tốt lành. Có thể nói, đó là hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc này vốn dành cho nghệ thuật và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao hơn cuộc đời mới có thể làm nổi"…
Nhận xét về cái nhìn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới, nhìn chung các tác giả đã thấy rõ cái nhìn tiến bộ, mới mẻ của nhà văn. Tuy nhiên, đây chỉ là những nhận xét lẻ tẻ trên các công trình của các nhà nghiên cứu. Chúng tôi thấy vấn đề này cần phải nghiên cứu sâu hơn và có hệ thống hơn.
2.2. Về giọng điệu nghệ thuật
Trong quá trình sưu tầm tài liệu tham khảo chúng tôi nhận thấy, có những công trình nghiên cứu, những ý kiến đánh giá liên quan đến khía cạnh này như trong bài viết Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề của đời sống gia đình hôm nay (Báo phụ nữ Việt Nam số 17 - 1986) tác giả Trần Bảo Hưng nhận xét: "Về mặt bút pháp, qua tác phẩm này, Ma Văn Kháng bộc lộ thêm một số sở trường mới; khả năng biện giải, triết lý, phân tích một cách khúc chiết thông minh"
Nghiên cứu về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú (1989), tác giả Mai Thục cho rằng: Đám cưới không có giấy giá thú có tính luận đề về mối quan hệ giữa những giá trị văn hóa với đời sống của con người; Vũ Dương Quý với bài viết Phải chăng đời là một vại dưa muối hỏng?...đặc biệt là cuộc hội thảo về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú do báo Văn nghệ tổ chức ngày 11- 1- 1990 với sự tham gia đông đảo c ủa các nhà văn, nhà lý luận phê bình nổi tiếng đã đánh giá khái quát và bổ ích, lý thú về giá trị đích thực cũng như những hạn chế của tác phẩm trên mọi phương diện.
Khi bàn về Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời trong Vẫn chuyện Văn và Người, Giáo sư P hong Lê tiếp tục nhận xét: "Truyện ngắn Ma Văn Kháng quả là một hiện tượng nổi bật trong văn học những năm 90, tuy vẫn chỉ một giọng điệu nhưng không gây nhàm tẻ. Biết thế trước rồi mà vẫn ham đọc. Một giọng điệu vẫn là nằm trong trong mạnh ngầm tuôn chảy từ một nguồn chung của nền truyện ngắn hiện đại. Rõ ràng Ma Văn Kháng vẫn chưa tách ra được thật rõ một lối riêng, nhưng vẫn không bị nhoè mờ trong diện mạo chung đó… Côi cút giữa cảnh đời đối với tôi, đó là một cuốn sách đọc không thôi cảm động và đầy ấn tượng. Trên hai trăm trang sách, đọc một thôi, không có gì khúc mắc, tất c ả đều dễ hiểu, tưởng như không có nghệ thuật… Cuốn sách của Ma Văn Kháng ai đọc cũng hiểu, đọc một lần là hiểu, và xem ra c ũng chỉ một tầng nghĩa thôi. Ấy vậy mà, tôi lại nghĩ, đó mới là hoặc vẫn là nghệ thuật đích thực".
Về các luận văn, luận án tiến sĩ chúng tôi thấy luận văn cuả Phạm Mai Anh (1997) - Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng; Lê Thanh Ngọc (2004) - Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975; Đỗ Phương Thảo (2006) - Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng…
Có thể bạn quan tâm!
- Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới - 1
- Sự Chuyển Mình Mạnh Mẽ Của Một Cơ Chế Xã Hội Mới
- Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới - 4
- Cái Nhìn Con Người Tinh Tường Nghiêng Về Những Giá Trị Văn Hoá Truyền Thống
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Đây là những công trình đã nghiên cứu và có những nhận xét, đánh giá khá sâu sắc, khách quan một số khía cạnh về phương diện nghệ thuật trong các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng và là những gợi ý vô cùng quan trọng cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi.
2.3. Về ngôn ngữ nghệ thuật
Với sự đóng góp của mình về thể loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng được coi là một trong những người có thành tựu đáng kể trong quá trình đổi mới tư duy tiểu thuyết, tìm hướng đi mới trong s ự sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là sự sáng tạo về ngôn ngữ. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi thấy có một vài công trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong bài viết Một vài suy nghĩ khi đọc Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng, tác giả Vũ Thị Oanh đã cho rằng: "Côi cút giữa cảnh đời - cuốn sách viết theo đề nghị cho lứa tuổi sắp vào đời, không đề cương, không hợp đồng, được xuất bản bởi sự hợp tác của Nhà xuất bản Kim Đồng và Nhà xuất bản
Văn học là một cuốn sách như thế… Đặc biệt, viết cho lứa tuổi sắp vào đời nhưng tác giả không hề né tránh cái xấu, cái ác; những yếu tố tồn tại khách quan làm rõ thêm bức tranh cuộc sống với những cuộc đấu tranh thể hiện ở nhiều bình diện, sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác... Tất c ả được thể hiện bằng ngòi bút mềm mại, uyển chuyển, ngôn ngữ hóm hỉnh, phong phú sắc màu: kết cấu có hậu kiểu truyện cổ dân gian của tác giả Ma Văn Kháng".
Khi bàn về tác phẩm Ngược dòng nước lũ theo tác giả Hồ Anh Thái, "Ngược dòng nước lũ chứa đựng những điển tích được gài cắm cẩn thận, khi được huy động đã chuyển tải được những gửi gắm của tác giả từ trong chiều sâu suy tư ra bên ngo ài, trong một kho ảng khô ng gian mở rộng nhiều chiều kích. Nếu không có công dụng tài hoa ấy, cuốn sách ấy chắc khó đọc với những tranh giành đấu đá đầy công thức". Nghiên cứu tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn tác giả Trần Cương đã đưa ra nhận định: "Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã có bề dày, kết quả của một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ và ở tác giả đã có định hình rõ nét phong cách nghệ thuật của mình".
Gần đây còn có những công trình nghiên cứu ít nhiều đề cập đến ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng như luận văn Thạc sĩ của Lê Thanh Hùng (2006) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới (Giai đoạn sáng tác 1980 - 1989); Lê Minh Chung (2007) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới; Đỗ Thị Thanh Quỳnh (2006) - Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết cuả Ma Văn Kháng; và luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thi Huệ (2000) - Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi của Việt Nam từ 1980 đến 1986 - Qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn...
Từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu sáng tác của Ma Văn Kháng ở từng khía cạnh cụ thể có liên quan đến những vấn đề mà luận văn nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy: Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời k ỳ Đổi mới ít nhiều đã được tìm hiểu, đề cập đến. Tuy nhiên, những công trình đó mới chỉ dừng lại ở những ý kiến, nhận định có tính khái quát, tổng hợp. Mặc dù vậy, trong
mức độ nhất định, các tài liệu kể trên sẽ là những gợi ý, định hướng, là nguồn tư liệu quý báu và cần thiết cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian có hạn, luận văn không đi sâu nghiên cứu tất cả các vấn đề nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng mà chỉ tập trung vào 3 vấn đề đặc sắc: Cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng.
Trong quá trình nghiên cứu những vấn đề đặt ra, chúng tôi tập trung vào một số tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn như Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Đám cưới không giấy giá thú, Chó Bi- đời lưu lạc và Ngược dòng nước lũ. Tuy nhiên, để thấy rõ sự chuyển hướng trong nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi có đề cập đến sáng tác của nhà văn trước đổi mới và có so sánh với những nhà văn khác.
4. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ những vấn đề nghiên cứu đã được đặt ra chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Vă n Khá ng thời kỳ Đổi mới" nhằm hướng tới mục đích cụ thể như sau:
4.1. Cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới một cách sâu sắc hơn, đồng thời chỉ ra được những nét đặc sắc riêng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, từ đó góp phần khẳng định phong c ách nghệ thuật Ma Văn Kháng.
4.2. Nâng cao khả năng cắt nghĩa, lý giải, truyền thụ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy tác phẩm của Ma Văn Kháng ở trường THP T.
4.3. Chỉ ra yếu tố chi phối thế giới nghệ thuật của Ma Văn Kháng, qua đó khẳng định mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố nổi trội: cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật Ma Văn Kháng. Khẳng định sự đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng trên thi đàn văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp thống kê, khảo sát
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp khái quát, tổ ng hợp
6. Đóng góp của luận văn
- Góp thêm tiếng nói mới về phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đương đại, cũng như có cái nhìn toàn vẹn về quá trình vận động tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
- Khẳng định những thành tựu và đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng trong nền văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
- Ở một mức độ nào đó, luận văn sẽ làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy văn học ở trường PTTH và Đại học cũng như người yêu thích văn học Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngo ài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai 3 chương:
Chương 1. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới
Chương 2. Giọng điệu nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới
Chương 3. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT CỦA MA VĂN KHÁNG TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật
Chúng ta đã biết, cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của con người, qua cái nhìn người ta "có thể thâm nhập vào sự vật, phát hiện ra đặc điểm của nó mà vẫn ở ngo ài sự vật, bảo lưu sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật". Do đó, cái nhìn được vận dụng muôn vẻ trong nghệ thuật và là một vấn đề dặc biệt quan trọng, đối với một nhà văn có tư tưởng và sự sáng tạo không thể không có cái nhìn nghệ thuật.
Khrápchencô trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học đã nhận xét: "Chân lý cuộc sống trong s áng tác nghệ thuật khô ng tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới, vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ" [106]. Bởi qua cái nhìn mỗi nhà văn mới tìm ra chất liệu để sáng tác và sáng tạo nghệ thuật. Những nhà văn có tài là những nhà văn nhìn thấy cái mà người khác không thấy hoặc khó thấy.
Nhận thấy tầm quan trọng của cái nhìn nghệ thuật, nhà văn Pháp M.Proust có nói: "Đối với nhà văn cũng như đối với hoạ sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn". Như vậy là, các nhà nghiên cứu lý luận và sáng tác nghệ thuật đều khẳng định vai trò đặc biệt của cái nhìn trong sáng tạo nghệ thuật dù ở bất cứ lĩnh vực nghệ thuật nào. Khi nghiên cứu về cái nhìn, Giáo sư Trần Đình Sử cho biết "Cái nhìn được thể hiện trong tri gi ác, cảm giác, quan s át, do đó nó có thể phát hiện ra cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi... Đó là một cái nhìn bao quát của người nghệ sĩ" [59,130]. Vậy cái nhìn đó được hình thành từ đâu? và nó được thể hiện trong sáng tác của nhà văn như thế nào? Cái nhìn nghệ thuật được hình thành từ trong quá trình tập trung năng lực tinh thần đặc biệt của nhà văn trước thực tiễn của cuộc sống. Khi nhà văn có cái nhìn sâu sắc, bao quát thì nó sẽ mở ra khả năng nhìn thấy rõ tính cách, quan hệ của con người và còn thấu hiểu được các mối liên hệ giữa những hiện tượng phức tạp của hiện thực. Sự nhận thức, vốn sống của nhà văn về
thế giới được thể hiện chủ yếu trong cái nhìn nghệ thuật. Trong sáng tác của nhà văn, cái nhìn nghệ thuật được thể hiện qua hình tượng nghệ thuật, qua các chi tiết, sự kiện và chi phối thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Cũng trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Khrápchencô đã phát biểu rằng: "Một nhà văn tài năng có thể tích luỹ những kiến thức lớn có liên quan tới phạm vi này hay phạm vi nọ của cuộc sống, có thể là một con người hiểu biết trong lĩnh vực này hay một lĩnh vực khác, song nếu thiếu một nhãn quan rộng rãi về cuộc sống thì anh ta sẽ đâm ra bất lực trong việc khám phá ra cái chủ yếu trong hiện thực" [15]. Qua đó có thể thấy, cái nhìn nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong việc phản ánh và khám phá hiện thực. Như vậy, trong nghệ thuật, chân lý cuộc sống không thể tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật của người nghệ sỹ. Thực tế sáng tác, mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng, độc đáo biểu hiện trong thế giới nghệ thuật của mình. Chính cái nhìn ấy đã góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật cuả nhà văn.
1.2. Những yếu tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng
1.2.1. Tố chất thông minh sắc sảo và cá tính sáng tạo của nhà vă n
Ma Văn Kháng sinh ngày 01 tháng 12 năm 1936, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, người dân tộc Kinh, quê gốc ở Phường Kim Liên, Quận Đố ng Đa, Thành phố Hà Nội, nay ở Quận Ba Đình - Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình hiếu học, Ma Văn Kháng được bố mẹ rất quan tâm đến chuyện học hành. Vốn có tố chất thông minh c ùng với năng khiếu và sự ham tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật ông đã thành công trên con đường sự nghiệp. Ông được đánh giá là một trong những "cây bút văn xuôi lực lưỡng" của văn học Việt Nam hiện đại nửa cuối thế kỷ XX.
Là một chàng trai Hà thành chính hiệu nhưng Ma Văn Kháng có một thời gian khá dài sống ở miền núi Tây Bắc. Ma Văn Kháng đã từng tham gia quân đội từ tuổi thiếu nhi và được cử đi học ở Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Năm 1960, ông vào học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Đại học, Ma Văn Kháng lên dạy học ở Lào Cai và đã lần lượt trải qua nhiều cương vị công tác. Ông
đã từng làm giáo viên dạy Văn, hiệu trưởng trường cấp 2, cấp 3 phổ thông Lào Cai, về sau ông được Tỉnh uỷ Lào Cai điều về làm thư ký cho Bí thư Tỉnh uỷ, rồi làm phóng viên, Phó tổng biên tập báo Đảng bộ Tỉnh. Suốt 20 năm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc, Ma Văn Kháng am hiểu lối sống, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cái tên Ma Văn Kháng phần nào đã nói lên tình yêu thương mà ông dành cho mảnh đất giàu tình nghĩa ấy. Từ trong tâm khảm, nhà văn đã coi Tây Bắc là quê hương thứ hai c ủa mình.
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ năm 1976 đến nay, Ma Văn Kháng về sống và công tác tại Hà Nội. Ông từng làm Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Đến tháng 3 năm 1995, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Đảng - Đoàn Hội Nhà văn Việt Nam kho á IV, trưởng ban sáng tác của Hội và là Tổ ng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài. Ở cương vị công tác nào, ông c ũng là người dễ mến, sống chan ho à với mọi người.
Trải qua gần năm mươi năm cầm bút, Ma Văn Kháng đã chứng tỏ khả năng tung hoành ngòi bút của mình trên nhiều lĩnh vực và đề tài khác nhau. Đức tính kiên trì, tố chất thông minh của nhà văn đã giúp ông trong việc tìm tòi nghệ thuật biểu hiện và mạnh dạn phanh phui trực diện những vấn đề phức tạp, gai góc của đời sống hiện tại.
Sau nhiều năm miệt mài tâm huyết với sáng tạo nghệ thuật cho đến nay, Ma Văn Kháng đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại gần 20 truyện ngắn, 10 tiểu thuyết và 8 tập truyện viết cho thiếu nhi. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ và bề thế, cùng với chất lượng nghệ thuật trong từng trang viết của mình, Ma Văn Kháng đã khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
Ở những sáng tác thời kỳ đầu người ta có thể thấy ngay chỗ mạnh và cũng là đặc điểm trong các sáng tác của Ma Văn Kháng là tính chất tập trung đề tài và nội dung phản ánh cuộc sống của con người miền núi. Đây chính là "đặc khu" mà Ma Văn Kháng đã dồn tâm, dồn sức trong suốt cuộc đời trai trẻ của mình. Có thể nói cùng với nhà văn Tô Hoài - người đặt nền móng xây dựng nền văn học viết về đề tài miền núi, Ma Văn Kháng đã góp sức mình khẳng định tầm cao mới trong những sáng tác viết về đề tài miền núi của nền văn học hiện đại Việt Nam.