Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội sau sáp nhập - 2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU



STT

TÊN BẢNG

TRANG

2.1

Các chỉ tiêu tài chính của HBB tại thời điểm 09/02/2012

35

2.2

Các chỉ tiêu đánh giá VCSH của SHB giai đoạn 2008 – 2013

36

2.3

Các chỉ tiêu chất lượng tài sản của SHB giai đoạn 2008 -2014

39

2.4

Chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của SHB

44

2.5

NIM và chênh lệch lãi suất của SHB giai đoạn 2010 – 2013

45

2.6

Tỷ lệ chi phí hoạt động/ thu nhập hoạt động của SHB so với TB

ngành

46

2.7.

Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh khoản của SHB

49

2.8.

Các chỉ tiêu phản ánh thanh khoản của SHB so với quy định của

NHNN

49

2.9.

Tóm tắt dữ liệu của các biến nghiên cứu

59

2.10.

Tóm tắt mức độ hiệu quả của các NH trong 2 thời kỳ trước (2008

– 2011) và sau sáp nhập (2012 – 2014)

61

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội sau sáp nhập - 2


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ



STT

TÊN BIỂU ĐỒ

TRANG

2.1

Tốc độ tăng trưởng tín dụng của SHB so với ngành

32

2.2

Tỷ lệ nợ xấu của SHB so với ngành

32

2.3

Cơ cấu nợ phân loại theo ngành của SHB

35

2.4

Cơ cấu nợ phân loại theo kỳ hạn của SHB

36

2.4.

Cơ cấu chi phí hoạt động của SHB giai đoạn 2009 – 2014

43

2.5

ROA của SHB so với TB ngành

43

2.6.

ROE của SHB so với TB ngành

43

1


LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu‌

Trong hai thập niên gần đây, hệ thống tài chính Việt Nam liên tục phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô, góp phần vào sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên tăng trưởng này không thực sự bền vững. Trong giai đoạn từ 2001 – 2007, NH được xem là ngành phát triển ấn tượng, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tín dụng bùng nổ và lợi nhuận vượt trội hơn nhiều so với các ngành khác. Lợi nhuận hấp dẫn thúc đẩy các NHTM lớn nhỏ được thành lập ngày càng nhiều. Số lượng các NHTM gia tăng nhanh chóng về quy mô và tính đa dạng nhưng lại không được hỗ trợ, kiểm soát bằng những quy định, chính sách chặt chẽ từ phía NHNN, tiềm ẩn những rủi ro và tác động trực tiếp đến tính an toàn và lành mạnh của hệ thống. Thực tế là khi khủng hoảng kinh tế thế giới 2007 – 2008 xảy ra, những yếu kém tồn tại trong hệ thống NHTM đã được bộc lộ rò nét.

Các NHTM Việt Nam đã và đang trải qua thời kỳ khó khăn trong kinh doanh, thể hiện qua sự sụt giảm nhanh chóng về lợi nhuận, quá trình cạnh tranh khắc nghiệt dẫn đến chi phí tăng cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bị ảnh hưởng do khủng hoảng khiến họ mất khả năng thanh toán cho NH, đẩy tỷ lệ nợ xấu tăng đột biến. Thậm chí các khoản thua lỗ do nợ xấu còn thâm lạm vào vốn chủ sở hữu của một số NH có chất lượng quản trị rủi ro yếu kém; không ít NH nhỏ rơi vào tình trạng thiếu hụt, thậm chí là khủng hoảng thanh khoản trong giai đoạn 2011 - 2012. Hơn lúc nào hết, việc đề ra chiến lược nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đi đôi với kiểm soát rủi ro của các NHTM là vấn đề vô cùng bức thiết nhưng cũng ẩn chứa nhiều khó khăn, thách thức khi nền kinh tế vẫn đang trên đà phục hồi một cách chậm chạp.

Thực trạng trên cho thấy việc giải quyết vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ là nhiệm vụ của riêng mỗi NH, bởi những vấn đề tồn tại còn mang tính hệ thống. Muốn các NHTM hoạt động an toàn, đảm bảo khả năng sinh lời đòi hỏi phải có chính sách dẫn dắt và định hướng kịp thời từ phía

2


NHNN. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khóa XI) khẳng định một trong ba trọng tâm tái cấu trúc kinh tế là cơ cấu lại hệ thống tài chính, trong đó chủ chốt là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Giải pháp được chính phủ đưa ra trong “Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” là “khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sáp nhập, hợp nhất, mua lại (M&A) theo nguyên tắc tự nguyện để tăng quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh”. Cho đến năm 2014 đã có một số NHTM thực hiện tái cơ cấu theo phương thức này, trong đó 9 NHTM bị NHNN xếp vào các TCTD yếu kém cần cơ cấu lại cũng đã thực hiện xong các biện pháp tái cấu trúc để ổn định tình hình tài chính và đi vào hoạt động bình thường.

Trong các trường hợp M&A ngân hàng giai đoạn này tiêu biểu có thương vụ M&A của SHB và HBB - đây là hai NH có danh tiếng và quy mô, cũng là một trong những trường hợp đầu tiên thực hiện M&A theo đề án tái cơ cấu. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới và một số quốc gia trong khu vực đã hoàn thành M&A trong lĩnh vực tài chính như Singapore và Malaysia, thực hiện M&A đã giúp họ đạt được những thành công đáng kể trong việc phát triển các tập đoàn tài chính vững mạnh. Vấn đề đặt ra là: tại Việt Nam, với những đặc trưng về ngành và tình hình kinh tế trong giai đoạn hiện nay thì liệu giải pháp M&A có thực sự mang lại những cải thiện đáng kể trong hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM hay không. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài : “NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTMCP SÀI GÒN – HÀ

NỘI SAU SÁP NHẬP” nhằm tìm hiểu những vấn đề xung quanh hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH này, cũng như đánh giá những lợi ích ban đầu mà SHB đã đạt được thông qua sáp nhập, từ đó đưa ra đề xuất nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh cho SHB.

3


2. Mục tiêu nghiên cứu‌

Đề tài nhằm mục đích tìm hiểu những vấn đề cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh đối với các NHTM, đặc biệt quan tâm đến vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM đặt trong bối cảnh hậu M&A.

Dựa trên cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng và cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường, kết hợp với phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh và cạnh tranh trong trường hợp cụ thể của SHB để rút ra những tồn tại, nguyên nhân ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTMCP, từ đó đề xuất một số giải pháp thiết thực, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của SHB nói riêng, các NHTMCP Việt Nam nói chung trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu :là hiệu quả hoạt động kinh doanh của SHB.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn: là hiệu quả hoạt động kinh doanh tại SHB trong giai đoạn từ 2008 – 2014, những tác động của M&A có ảnh hưởng đến hoạt động của NH này.

4. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng mô hình CAMEL và phương pháp bao dữ liệu (DEA) để thực hiện đánh giá mức độ hiệu quả hoạt động trong kinh doanh của SHB qua 2 thời đoạn: trước sáp nhập (2008 -2011) và sau sáp nhập (2012-2014).

5. Ý nghĩa của đề tài

Áp dụng mô hình CAMEL và mô hình DEA, kết hợp với phân tích các chính sách hiện hành, các thông tin trên thị trường để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của SHB trong hai thời kỳ trước và sau M&A. Từ đó, rút ra những thành công và hạn chế bước đầu trong quá trình cải thiện kết quả kinh doanh của NH. Việc đánh giá là cơ sở để đưa ra những đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của SHB, giúp NH luôn đảm bảo các chỉ tiêu an toàn hoạt động, quan trọng hơn là gia tăng mạnh mẽ khả năng tạo ra lợi nhuận, đồng thời tận dụng tối đa các lợi thế đạt được sau M&A để nâng cao năng lực cạnh tranh.

4‌


6. Kết cấu luận văn

Chương 1: Tổng quan về hiệu quả hoạt động kinh doanh và phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM

Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh của SHB sau sáp nhập Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của SHB sau sáp nhập

5


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM VÀ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NHTM‌‌

1.1. Cơ sở lý luận về hiệu quả HĐKD của các NHTM

1.1.1. Khái niệm về hiệu quả HĐKD của các NHTM

Hiệu quả là vấn đề được chú trọng trong nhiều lĩnh vực đời sống và được xem là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng của mọi hoạt động. Trong kinh tế, hiệu quả hoạt động kinh doanh (HĐKD) luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Có nhiều cách tiếp cận để hiểu về khái niệm hiệu quả nói chung và hiệu quả HĐKD nói riêng. Trong phạm vi của luận văn này quan tâm đến các khái niệm về hiệu quả trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là khái niệm hiệu quả HĐKD của các NHTM. Trong đó các các quan điểm nổi bật:

Theo nhà kinh tế học Adam Smith, hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa. Còn Farell (1957) cho rằng hiệu quả thể hiện mối tương quan giữa các biến số đầu ra thu được so với các biến số đầu vào đã được sử dụng để tạo ra những kết quả đầu ra đó. Ngoài ra, còn có quan điểm của Draft (2008), cho rằng hiệu quả hoạt động được hiểu là khả năng biến đổi các đầu vào có tính chất khan hiếm thành khả năng sinh lời hoặc giảm thiểu chi phí so với các đối thủ cạnh tranh.

Theo Ngô Đình Giao (1997), hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã đặt ra, nó biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó, độ chênh lệch giữa hai đại lượng này càng lớn thì hiệu quả càng cao. Trên góc độ này thì hiệu quả đồng nhất với lợi nhuận của doanh nghiệp và khả năng đáp ứng về mặt chất lượng của sản phẩm đối với nhu cầu thị trường.

Những khái niệm về hiệu quả HĐKD là đa dạng, nhưng có thể hiểu rằng hiệu quả HĐKD là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các HĐKD của doanh nghiệp dựa trên cơ sở so sánh lợi ích (doanh thu, lợi nhuận…) thu được với chi phí bỏ ra trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

6


NH là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, nhìn ở một góc độ cụ thể hơn lại có những quan điểm riêng về hiệu quả HĐKD của NH:

Peter S. Rose (2004) cho rằng: về bản chất NHTM cũng có thể được xem là một tập đoàn kinh doanh, hoạt động với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận với mức độ rủi ro cho phép. Đạt được hiệu quả kinh doanh cao là mục tiêu mà các NH quan tâm vì nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NH, đồng thời có thể giúp NH mở rộng quy mô hoạt động của mình.

Theo NH trung ương châu Âu ECB (2010), hiệu quả HĐKD của NH là khả năng tạo ra lợi nhuận bền vững. Lợi nhuận thu được đầu tiên dùng dự phòng cho các khoản lỗ bất ngờ và tăng cường vị thế về vốn, rồi cải thiện lợi nhuận thu được trong tương lai thông qua đầu tư từ các khỏan lợi nhuận giữ lại.

Như vậy, HĐKD của NH cũng như các doanh nghiệp khác đều nhằm mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận.Tuy nhiên, NH còn đóng vai trò của một trung gian tài chính. Đây là ngành kinh doanh có mức độ rủi ro cao so với các ngành khác, nên một NH được đánh giá là hoạt động có hiệu quả không những phải đáp ứng được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận với chi phí tối thiểu mà còn phải đáp ứng thường xuyên các yêu cầu về an toàn hoạt động và giảm thiểu mức độ rủi ro. Do đó, khi đề cập đến khái niệm hiệu quả HĐKD của các NHTM cần phải xem xét tính hiệu quả dựa trên nhiều khía cạnh: lợi nhuận, chi phí, chất lượng tài sản, khả năng đáp ứng thanh khoản,…

1.1.2. Những tác động của M&A đến hiệu quả HĐKD của các NHTM

Sáp nhập và mua lại (M&A) giữa các NHTM là hoạt động mang đến nhiều lợi ích: bên cạnh việc giúp các NHTM nhỏ có khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến để nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp các NHTMCP lớn và trung bình nâng cao tầm nhìn chiến lược để nắm bắt các khả năng, cơ hội tăng quy mô và mở rộng HĐKD thì đây cũng là một trong những biện pháp để chính phủ tái cấu trúc hệ thống NH, giúp ổn định và kiểm soát hoạt động NH một cách hiệu quả hơn. Dù xuất phát từ nguyên nhân nào thì sau M&A, các NH đều muốn mau chóng đi vào ổn định hoạt động và tăng trưởng lợi nhuận vượt trội như một minh chứng cho lợi ích của việc hợp nhất, sáp nhập.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/06/2022