ch
ia thành các loại: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vốn vay để thanh toán, vay tái chiết khấu và vay có đảm bảo.
- Vay các tổ chức tín dụng khác: Là quá trình điều hòa nhu cầu vốn khả dụng giữa NHTM thừa dự trữ cho NHTM thiếu hụt dự trữ tại NHNN nhằm đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển liên tục trong hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy chế về dự trữ bắt buộc, an toàn vốn và có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên tại NHNN. Chi phí cho loại nguồn vốn này cao nên chỉ sử dụng hình thức này khi nhu cầu thật sự cần thiết để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng.
1.1.3.4. Hình thức tạo vốn khác
Trong quá trình hoạt động nghiệp vụ, NHTM cũng tạo được một khoản vốn nhàn rỗi nhất định như thông qua trung gian thanh toán, nghiệp vụ đại lý thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho một khách hàng hay một dự án đầu tư. Đây là những nguồn vốn lớn có thời hạn tương đối dài, trong lúc giải ngân chưa hết ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay nền kinh tế. Đóng vai trò trung gian, ngân hàng vừa tiến hành thu phí dịch vụ vừa thu lãi khi cho khách hàng vay. Chính vì vậy trong công tác huy động vốn ngân hàng cần quan tâm chủ động tìm kiếm nguồn vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư để giảm chi phí, tăng thu nhập.
1.1.4. Tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn
1.1.4.1. Đối với nền kinh tế
Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, nguồn vốn huy động luôn có ý nghĩa quan trọng, giữ vai trò quyết định đến sự phát triển lâu dài và vững chắc của một đất nước, sự chi viện, bổ sung từ bên ngoài dù là viện trợ cho vay hay đầu tư nước ngoài cũng chỉ là tạm thời. Qua các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực và trên thế giới những năm gần đây đã minh chứng một điều không thể mong đợi sự tăng trưởng phát
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Hải Dương - 1
- Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Hải Dương - 2
- Vai Trò Của Vốn Trong Hoạt Động Kinh Doanh Của Nhtm
- Kinh Nghiệm Trong Huy Động Vốn Của Nhtm Một Số Nước Trên Thế Giới Và Bài Học Đối Với Việt Nam
- Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Agribank Tỉnh Hải Dương
- Thực Trạng Công Tác Huy Động Vốn Tại Agribak Tỉnh Hải Dương
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
triển nhanh và vững chắc nhờ vào nguồn vốn bên ngoài mà phải tích cực mở rộng công tác huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính tiền tệ. Trong đó giải pháp khá hữu hiệu là không ngừng tăng cường huy động vốn, nhất là huy động vốn thông qua hệ thống NHTM.
Công tác huy động vốn của NHTM chính là huy động một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với các mục đích khác nhau. Thông qua công tác huy động vốn, các NHTM đã thu gom được lượng tiền mặt tương đối lớn trong nền kinh tế, giảm dần lượng tiền mặt trong lưu thông. Từ đây, vốn ngân hàng lại được dùng để đầu tư cho nền kinh tế, kích thích tăng sản phẩm xã hội, tạo công ăn việc làm, ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ.
Trên cơ sở phát hành các giấy tờ có giá như: Chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu...NHTM đã tạo hàng hóa cho thị trường vốn, thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán tại các quốc gia.
1.1.4.2. Đối với NHTM
Như đã phân tích ở trên, nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đối với các NHTM ở nước ta, vốn huy động thường chiếm tỷ trọng từ 70%-90% tổng nguồn vốn. Do vậy công tác huy động vốn luôn là hoạt động mà bất kỳ NHTM nào đều rất quan tâm.
Huy động vốn là nghiệp vụ truyền thống nhằm không ngừng mở rộng nguồn vốn trong kinh doanh, nó vừa là khâu mở đường và cũng là khâu cốt tử của một ngân hàng. Nhờ huy động vốn tốt, lượng cung tiền của ngân hàng tăng sẽ thu hút được nhiều khách hàng, ngân hàng có vốn để mở rộng đầu tư, tăng thị phần của ngân hàng trên thị trường, nó quyết định quy mô lớn hay nhỏ của một ngân hàng.
13
Với nguồn vốn huy động dồi dào, NHTM có lợi thế trong việc chấp hành các qui định của NHNN về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu...Đồng thời chứng tỏ năng lực tài chính lành mạnh, đảm bảo hoạt động kinh doanh không bị ngừng trệ, khả năng thanh toán và chi trả rất cao, hạn chế rủi ro thanh khoản, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, tạo niềm tin và nâng cao vị thế của ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thanh toán, qui mô, phạm vi hoạt động và sự sống còn của NHTM. Do vậy, dù ở trạng thái trường vốn hay đoản vốn ngân hàng đều phải duy trì bền vững nghiệp vụ này. Trong từng giai đoạn và tuỳ từng mục tiêu của mỗi thời kỳ có thể lựa chọn định hướng chiến lược huy động vốn cho phù hợp với ngân hàng mình, đảm bảo chủ động trong việc đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
NHTM với vai trò tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, cho nên mở rộng công tác huy động vốn sẽ góp phần tạo ra nguồn vốn với chi phí bình quân đầu vào thấp và có tính ổn định, phù hợp với kết cấu sử dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh để đạt mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng an toàn và hiệu quả.
Trong điều kiện môi trường kinh doanh ngày càng có nhiều các định chế tài chính tham gia như hiện nay thì sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, quyết liệt buộc NHTM phải tăng quy mô nguồn vốn, tăng quy mô tín dụng để tăng sức cạnh tranh, củng cố vị thế của mình trên thương trường. Mặt khác, quy mô đủ lớn là điều kiện nền tảng cho việc đầu tư sử dụng các thành tựu kỹ thuật, công nghệ mới giúp các NHTM trong nước vươn lên làm chủ thị trường, giữ vững vị thế của mình.
1.1.4.3. Đối với khách hàng
Khi kinh tế phát triển, khách hàng có nhu cầu lựa chọn ngân hàng cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích, thuận tiện chứ không chỉ đơn thuần
chọn ngân hàng làm nơi cất trữ tiền và kiếm lời từ lãi suất. Do đó, khách hàng sẽ tìm đến kênh huy động vốn phong phú về sản phẩm dịch vụ, thuận tiện trong phân phối, cung ứng, hấp dẫn về chính sách lãi suất, nhằm đạt được mục tiêu mà họ mong muốn.
Các NHTM với chức năng chính là trung gian tín dụng, lấy vốn từ nơi thừa chuyển đến nơi thiếu đã góp phần giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi bản thân họ không phải lúc nào cũng có thể tập trung đầy đủ, kịp thời về vốn. Nhờ mở rộng công tác huy động vốn, ngân hàng có khả năng mở rộng tín dụng giúp doanh nghiệp, cá nhân chủ động về tài chính, tận dụng triệt để những thời cơ trong kinh doanh, có vốn để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, giúp doanh nghiệp giữ vững uy tín trên thị trường, xu hướng ngày càng phát triển lớn mạnh. Đồng thời giúp cho các cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh có điều kiện để mở rộng sản xuất, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập.
Như vậy, công tác huy động vốn của NHTM đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định vị thế, sự ra đời và tồn tại của một ngân hàng. Cho nên, bất kỳ tình huống nào, dù thừa hay thiếu vốn ngân hàng cũng phải lựa chọn định hướng chiến lược huy động vốn cho phù hợp trên cơ sở những thông tin về khách hàng để đa dạng hóa hình thức, góp phần tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
1.2. CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
Với chức năng đi vay để cho vay, hoạt động trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, các NHTM vừa phải giữ vững và mở rộng thị trường huy động vốn để tạo thế chủ động trong kinh doanh, đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng cho nền kinh tế, đảm bảo an toàn thanh
15
k
hoản vừa phải đảm bảo mục tiêu kinh doanh an toàn và mang lại nguồn lợi nhuận hấp dẫn. Điều đó đòi hỏi các NHTM phải có chiến lược huy động vốn sao cho hiệu quả nhất. Để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn, người ta chủ yếu dựa vào các tiêu thức sau:
1.2.1. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn: Chỉ tiêu này được tính bằng cách so sánh tổng nguồn vốn qua các năm.
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn =
Nguồn vốn năm trước
---------------------------- x 100%
Nguồn vốn năm sau
Thông thường tốc độ tăng trưởng nguồn vốn được đánh giá là tăng trưởng tốt, hợp lý khi nguồn vốn tăng đều qua các năm, luôn ổn định phù hợp với tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng.
1.2.2. Cơ cấu nguồn vốn: Chỉ tiêu này được tính bằng cách so sánh từng loại nguồn vốn với tổng nguồn vốn.
Tỷ lệ loại nguồn vốn i (%) =
Nguồn vốn loại i
------------------------- x 100%
Tổng nguồn vốn
Đây là quan hệ tỷ lệ giữa các loại nguồn vốn, dựa vào chỉ tiêu này, các NHTM có thể điều chỉnh một cách hợp lý của từng loại nguồn vốn để đảm bảo có lợi trong hoạt động kinh doanh từng thời kỳ.
1.2.3. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động: Chỉ tiêu này được tính bằng cách so sánh tổng vốn huy động qua các năm.
Tốc độ tăng trưởng vốn huy động =
Vốn huy động năm trước
------------------------------ x 100%
Vốn huy động năm sau
Thông thường tốc độ tăng trưởng vốn huy động được đánh giá là tăng trưởng tốt, hợp lý khi vốn huy động tăng đều qua các năm và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn vốn.
1.2.4. Cơ cấu vốn huy động: Chỉ tiêu này được tính bằng cách so sánh từng loại vốn huy động với tổng vốn huy động.
Vốn huy động loại i
Tỷ lệ loại vốn i (%) =
------------------------ x 100%
Tổng vốn huy động
Đây là quan hệ tỷ lệ giữa các loại vốn huy động, theo các cách phân loại khác nhau. Cơ cấu này phản ánh tính hợp lý trong quá trình huy động các loại vốn khác nhau. Tính hợp lý được thể hiện ở sự phù hợp với cơ cấu sử dụng vốn sao cho hệ số sử dụng vốn tiến gần đến 1 - điều lý tưởng mà các NHTM hướng tới. Tùy từng thời kỳ kinh doanh, NHTM cần quan tâm tới việc điều chỉnh cơ cấu vốn huy động cho hợp lý hơn, đảm bảo đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.5. Mức độ đa dạng các hình thức huy động vốn: Được thể hiện bằng số lượng các sản phẩm dịch vụ huy động của ngân hàng tại từng thời điểm nhất định. Đó là việc sử dụng nhiều loại kỳ hạn, nhiều mức lãi suất, nhiều cách thức trả lãi, nhiều loại tiền tệ để khách hàng có nhiều sự lựa chọn trước khi đưa ra quyết định và để NHTM linh hoạt trong điều hành hoạt động huy động vốn cho phù hợp với mục tiêu kinh doanh từng thời kỳ.
1.2.6. Hiệu suất huy động vốn: Chỉ tiêu này được tính bằng cách so sánh bình quân vốn huy động trên một điểm giao dịch và trên một cán bộ giữa các NHTM trong cùng địa bàn.
1.2.7. Tỷ lệ chi phí huy động vốn /Tổng chi phí
Chi phí huy động vốn: Được cấu thành từ 2 bộ phận là chi phí lãi suất huy động và chi phí phi lãi.
Chi phí huy động vốn = Chi phí lãi suất huy động + Chi phí phi lãi
Chi phí lãi suất huy động là bộ phận chi phí lớn nhất và có tính nhạy cảm rất cao đối với biến động của thị trường. Chi phí này có xu hướng gia tăng vì nó chịu tác động mạnh mẽ của quá trình cạnh tranh trong huy động
17
v
ốn giữa các ngân hàng và định chế tài chính khác. Mặt khác, quy mô, cơ cấu nguồn vốn có vai trò quyết định chi phí trả lãi nên mỗi NHTM đều có chiến lược huy động vốn nhằm tìm kiếm các nguồn vốn có chi phí thấp tạo lợi thế trong kinh doanh. Còn chi phí phi lãi thường ổn định hoặc có thể được tiết giảm nếu xét trong một thời kỳ, nhưng xét trong quá trình hoạt động của ngân hàng thì chi phí phi lãi cũng có xu hướng gia tăng, nhất là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh cao. Các bộ phận cấu thành nên chi phí phi lãi bao gồm: chi phí marketing, chi phí giao dịch, chi phí phòng ngừa rủi ro và các chi phí khác. Để tiết giảm bộ phận chi phí này, các NHTM phải đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ, bố trí nhân lực phù hợp, đổi mới phong cách giao dịch trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.2.8. Tính cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn: Được biểu hiện bằng số dư tổng nguồn vốn huy động (sau khi đã trừ tỷ lệ dự trữ thanh toán và dự trữ bắt buộc) tương đương số dư các khoản đầu tư. Các NHTM sau khi tạo lập được nguồn vốn đã sử dụng để cho vay, đầu tư, mua sắm tài sản cố định, gửi tiền tại các ngân hàng khác và thực hiện dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Như vậy, nguồn vốn có tính chất quyết định danh mục đầu tư đồng thời trên cơ sở tính ổn định của nguồn vốn, chi phí và thời hạn huy động là cơ sở để tính toán thời hạn cho vay và mức lãi suất cho phù hợp. Từng NHTM phải luôn giữ được tính cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn nhằm tránh lãng phí vốn, giảm thiểu rủi ro khi đầu tư quá mức quy định.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
Để có được nguồn vốn ổn định với cơ cấu hợp lý, công tác huy động vốn của các NHTM luôn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Việc hiểu rõ, đầy đủ, chính xác, chi tiết cụ thể về các nhân tố ảnh hưởng giúp các nhà kinh doanh ngân hàng chủ động tìm kiếm các giải pháp huy động và đạt hiệu quả cao.
1.3.1. Nhân tố khách quan
1.3.1.1. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế bao gồm những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu nhập, thanh toán, chi tiêu, nhu cầu về vốn và gửi tiền của khách hàng, có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu và cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, chi phối đến công tác huy động vốn và đầu tư cùng các dịch vụ tài chính khác. Môi trường kinh tế vừa tạo cho ngân hàng những cơ hội kinh doanh, đồng thời cũng tạo ra những thách thức đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Sự ổn định của nền kinh tế là nhân tố đầu tiên để người gửi tiền đưa ra quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay không.
Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc dân làm cho các biến số kinh tế vĩ mô đều có dấu hiệu tốt, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển sẽ là cơ hội tốt trong thực hiện các kế hoạch kinh doanh của ngân hàng nói chung và công tác huy động vốn nói riêng.
Tỷ lệ lạm phát tăng sẽ gây nên sự mất giá của đồng tiền, lợi ích của người gửi tiền sẽ giảm do lãi suất thực giảm xuống, tạo tâm lý cho khách hàng chuyển sang giữ vàng, ngoại tệ mạnh hay hàng hoá để đảm bảo giá trị đồng tiền, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến công tác huy động vốn của NHTM.
Chính sách đầu tư, tiết kiệm của Chính phủ và thu nhập bình quân đầu người có ảnh hưởng tới nguồn vốn của ngân hàng. Nguồn vốn này chủ yếu huy động từ khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư mà xuất phát điểm là do tiết kiệm trong tiêu dùng để dành chi tiêu trong tương lai. Mặt khác, yếu tố tiết kiệm lại phụ thuộc vào thu nhập, tâm lý tiêu dùng, sự ổn định của nền kinh tế, nếu không có tiết kiệm thì ngân hàng rất khó khăn trong công tác huy động vốn.
Tỷ lệ xuất nhập khẩu thặng dư cùng xu hướng toàn cầu hóa với phát triển thương mại quốc tế và sự di chuyển tự do hơn của các dòng vốn quốc tế
19