Vai Trò Của Vốn Trong Hoạt Động Kinh Doanh Của Nhtm


CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1 1 TỔNG QUAN VỀ 1

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHTM

1.1.1. NHTM và vốn của NHTM

1.1.1.1. Ngân hàng thương mại

NHTM là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện chức năng trung gian tài chính giữa hai hay nhiều bên trong một hoạt động tài chính nhất định.

1.1.1.2. Vốn của NHTM

Nguồn vốn của NHTM có thể coi là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hay huy động được mà từ đó ngân hàng có thể dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Nguồn vốn của NHTM bao gồm:

- Vốn tự có và coi như tự có:

Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Hải Dương - 3

+ Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được và thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong kết cấu tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Đây là nguồn vốn quan trọng, là cơ sở để mở rộng qui mô hoạt động, quyết định đến năng lực và sức cạnh tranh của NHTM, là tài sản đảm bảo tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Theo đà phát triển của ngân hàng, vốn này sẽ tăng dần về số tuyệt đối. Ngoài ra nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng cũng như việc duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ.

+ Vốn coi như tự có: Gồm phần lợi nhuận chưa chia, các quỹ khác chưa sử dụng có thể xem như là phần vốn coi như tự có của NHTM, vì đó là những khoản tiền mà ngân hàng phải sử dụng vào mục đích nhất định nhưng chưa sử dụng.


Vốn tự có và coi như tự có của NHTM có một vị trí quan trọng, người ta ví nó như một cái đệm để chống đỡ sự giảm giá trị những tài sản có của ngân hàng mà có thể đẩy ngân hàng đến tình trạng thiếu khả năng chi trả và phá sản. Tại Việt Nam, theo quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD thì TCTD (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 9%.

- Vốn huy động: Vốn huy động của NHTM là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức tài chính, tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua hoạt động kinh doanh của mình. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.

Vốn huy động thường xuyên biến động nên ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của NHTM, nó là thành phần thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.

- Vốn đi vay: Là nguồn vốn mà ngân hàng chủ động đi vay trên thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cấp thời. Nguồn vốn đi vay thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó là nguồn vốn cần thiết đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách bình thường.

Vốn đi vay có tính ổn định nhưng lãi suất phải trả khá cao, đây là vấn đề bất lợi trong việc tối đa hóa lợi nhuận buộc các NHTM phải tính toán kỹ lưỡng trước khi quyết định vay.

- Vốn khác: Là toàn bộ giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông qua việc cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ uỷ thác đầu tư.


5


1 1 2 Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM 1 1 2 1 Nguồn vốn là cơ 2

1.1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM

1.1.2.1. Nguồn vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh NHTM là tổ chức kinh tế kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ, chính vì thế có thể nói vốn là yếu tố đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Những ngân hàng trường vốn là những ngân hàng có thế mạnh trong kinh doanh. Do vậy NHTM phải thường xuyên quan

tâm tới công tác huy động vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.

1.1.2.2. Nguồn vốn của ngân hàng sẽ quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng

Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Nhờ có nguồn vốn lớn thì lượng cung tiền cho khách hàng tăng, mà lượng cung tiền tăng sẽ thu hút được nhiều khách hàng và ngược lại nguồn vốn nhỏ thì lượng cung tiền cho khách hàng nhỏ sẽ hạn chế lượng khách hàng đến với ngân hàng. Thông thường, ngân hàng trường vốn thì việc kinh doanh sẽ đa năng hơn, phạm vi hoạt động rộng hơn, khối lượng và mức đầu tư cho vay cũng lớn hơn các ngân hàng đoản vốn. Trong trường hợp khả năng vốn hạn hẹp, các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động của lãi suất, gây ảnh hưởng đến công tác huy động vốn từ tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Vì thế khi trên địa bàn hoạt động của NHTM có nhu cầu về vốn rất lớn nhưng ngân hàng lại không huy động được vốn, thì cũng đồng nghĩa với việc thu hẹp thị trường tín dụng và các nghiệp vụ kinh doanh khác của ngân hàng.

1.1.2.3. Nguồn vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường

Vốn lớn thu hút được khách hàng đến quan hệ giao dịch đồng thời cũng tạo cho khách hàng độ tin tưởng vào ngân hàng. Khi trường vốn thì khả năng


thanh toán chi trả cao và như vậy khách hàng rất yên tâm đặt quan hệ mà ít bận tâm về vấn đề rủi ro có thể xảy ra và đó là yếu tố đầy hấp dẫn đối với khách hàng. Khi đã tạo được niềm tin với khách hàng thì thông qua khách hàng, thương hiệu của ngân hàng ngày càng được quảng bá rộng rãi, uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao trên thị trường. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh đồng thời có các hoạt động hiệu quả nhằm giữ vững chữ tín.

1.1.2.4. Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng

Trong kinh tế thị trường, công tác huy động vốn muốn đạt hiệu quả đòi hỏi các NHTM phải chú trọng nâng cao trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại... làm tiền đề cho việc thu hút vốn. Khi nguồn vốn đủ mạnh và biết khai thác sử dụng có hiệu quả sẽ củng cố thế và lực, tạo lập uy tín ngày càng cao. Trong quan hệ kinh tế thì bất cứ khách hàng nào cũng muốn tìm NHTM có năng lực tài chính lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng qui mô tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất ưu đãi cho mình. Mặt khác các NHTM có điều kiện để mở rộng việc kinh doanh đa năng góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn, tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường.

1.1.3. Các hình thức mở rộng huy động vốn của NHTM

Trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM thì vốn huy động thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và quyết định đến quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hơn nữa, nguồn vốn này thường có chi phí thấp hơn so với các nguồn vốn khác. Vì vậy, hầu hết các NHTM đều đẩy mạnh việc mở rộng nguồn vốn thông qua việc tăng trưởng vốn huy động.

1.1.3.1. Huy động vốn trong dân cư

Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều có những khoản thu nhập và những khoản tiền dự phòng cho những tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội


7


ng phát triển thì các khoản thu nhập không chỉ được trả bằng tiền mặt các 3

ng phát triển thì các khoản thu nhập không chỉ được trả bằng tiền mặt, các khoản dự phòng càng tăng lên và nhu cầu sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng cũng tăng lên. Nắm bắt được những đặc tính đó, các NHTM tìm mọi hình thức để huy động các khoản tiền này, vì nếu gom được chúng ngân hàng sẽ có một nguồn vốn không nhỏ để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình, từ đó tạo ra lợi nhuận.

Huy động vốn trong dân cư được NHTM thực hiện thông qua hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thu nhập:

* Huy động tiền gửi tiết kiệm:

Là hình thức mà người dân dùng một phần thu nhập (phần để tiết kiệm, dự phòng) của mình gửi vào ngân hàng nhằm thực hiện các mục đích: Tích luỹ để dành, hưởng một ít lợi nhuận hoặc phục vụ chi tiêu trong tương lai. Đây là loại tiền gửi được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của NHTM. Vốn huy động từ tài khoản tiền gửi tiết kiệm thường chiếm tỷ trọng lớn trong tiền gửi ngân hàng.

- Căn cứ vào kỳ hạn gửi tiền chia thành hai loại:

+ Tiết kiệm không kỳ hạn: Với hình thức này người gửi có thể gửi nhiều lần và rút ra theo nhu cầu sử dụng bất cứ lúc nào mà không cần thông báo trước. Loại tiền gửi này cũng được ngân hàng trả lãi nhưng không được sử dụng các hình thức thanh toán để chi trả cho người khác như tiền gửi thanh toán. Nguồn vốn này tính ổn định thấp nên các NHTM phải quan tâm đến dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán.

+ Tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi được thoả thuận trước về thời hạn và lãi suất giữa khách hàng với ngân hàng. Về nguyên tắc, lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn cao hơn loại không kỳ hạn, kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Về nguyên tắc khách hàng gửi tiền vào loại này chỉ được rút gốc và lãi khi đến hạn. Tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và tăng sức


cạnh tranh trong huy động vốn ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút vốn trước hạn và hưởng lãi theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thường chia thành hai loại: Loại có lãi và loại vừa có lãi, vừa có thưởng; hai loại này về tính chất và điều kiện huy động giống nhau, song lại có sự khác nhau là: Loại có thưởng lãi suất thấp hơn loại không có thưởng; loại vừa có lãi, vừa có thưởng thường phù hợp với khách hàng vừa có mục đích tiết kiệm sinh lời, vừa mong muốn có được cơ may trúng thưởng.

- Căn cứ cách gửi tiền chia thành:

+ Tiết kiệm gửi lẻ rút gọn: Đây là hình thức tiết kiệm gửi góp, hàng tháng khách hàng trích một phần thu nhập của mình gửi vào ngân hàng để sau một thời gian thành một khoản tiền tích lũy.

+ Tiết kiệm gửi gọn rút lẻ: Đây là hình thức tiết kiệm linh hoạt, khách hàng gửi vào một lần, khi cần có thể rút một phần gốc và được hưởng lãi của phần gốc đó theo thời gian thực gửi với lãi suất không kỳ hạn.

+ Tiết kiệm gửi gọn rút gọn: Đây là hình thức tiết kiệm thông dụng nhất. Khách hàng gửi vào một lần, cố định thời gian gửi và lãi suất. Khi đến hạn mới được rút gốc và hưởng lãi.

Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn tương đối ổn định lâu dài, giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh, tiềm năng huy động của ngân hàng trong dân cư còn rất cao nên các ngân hàng luôn sử dụng đa dạng các hình thức để huy động nguồn vốn này.

* Tiền gửi thu nhập:

Sự phát triển của khoa học công nghệ và những ứng dụng kỹ thuật tiến bộ đã giúp ngân hàng trở thành những trung gian thanh toán không dùng tiền mặt. Ngày nay các nước phát triển và đang phát triển đều theo xu hướng sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, các nguồn thu nhập của người


9


la

o động được trả vào tài khoản cá nhân của họ tại ngân hàng Hình thức này 4

o động được trả vào tài khoản cá nhân của họ tại ngân hàng. Hình thức này vừa minh bạch được nguồn thu nhập của người lao động, làm cơ sở để quản lý thuế và chống tham nhũng, vừa tiết kiệm cho quốc gia trong việc in ấn và lưu thông tiền mặt, Khi người lao động cần tiêu dùng, họ thanh toán thông qua máy rút tiền tự động (máy ATM) hoặc các dịch vụ thanh toán thẻ của ngân hàng. Khi cần tiêu dùng bằng tiền mặt họ có thể rút tiền tại ngân hàng hoặc tại máy ATM. Loại hình này đòi hỏi ngân hàng phải có công nghệ, trang thiết bị hiện đại đáp ứng nhanh nhất yêu cầu sử dụng tiền của khách hàng.

Tiền gửi thu nhập là nguồn vốn không ổn định lâu dài nhưng là nguồn vốn thường xuyên, có chi phí thấp và là cơ sở để ngân hàng phát triển các dịch vụ tiện ích kèm theo như dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán…để tăng các khoản thu cho ngân hàng.

1.1.3.2. Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, TCTD

* Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền được ký gửi với mục đích an toàn tài sản, khi cần sử dụng khách hàng đến ngân hàng rút ra để chi tiêu hoặc yêu cầu ngân hàng trích tiền từ tài khoản này để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ cho mình. Đồng thời khách hàng cũng có thể yêu cầu ngân hàng chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản này. Với mục đích chính là để giao dịch thanh toán nên loại tiền gửi này không nhạy cảm với lãi suất. Ngân hàng luôn phải thỏa mãn mọi yêu cầu của người gửi và chỉ được phép sử dụng tồn khoản khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.

Tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ biến động thường xuyên, tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhau giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán của một khách hàng hay giữa các tài khoản của các khách hàng làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản mà ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh. Để tăng trưởng nguồn vốn này không phải là yếu tố lãi suất mà là sự an toàn, thuận tiện cũng


như chất lượng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, đặc biệt là dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.

* Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút vốn. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi do đó nó rất nhạy cảm với lãi suất. Mức lãi suất phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền, quan hệ cung cầu về vốn tại thời điểm huy động.Về cơ bản, tiền gửi có kỳ hạn không được sử dụng để thanh toán và việc rút vốn trước hạn chỉ được hưởng lãi suất của loại tiền gửi không kỳ hạn. Mặt khác do kỳ hạn gửi danh nghĩa và kỳ hạn gửi thực tế không mấy khi trùng khớp nên tạo ra nguồn vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào cho vay trung, dài hạn. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với các mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng, tiết kiệm chi phí và chủ động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh.

1.1.3.3. Huy động vốn bằng cách đi vay

a. Phát hành giấy tờ có giá

Bên cạnh hình thức nhận gửi tiền, các NHTM còn huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành giấy tờ có giá theo từng đợt phục vụ tùy theo mục đích cụ thể với sự chấp thuận của ngân hàng Trung ương hoặc Hội đồng chứng khoán quốc gia. Loại vốn này lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm và có nhiều kỳ hạn khác nhau, thời hạn càng dài lãi suất càng cao.

b. Vay ngân hàng Trung ương và các TCTD khác

- Vay ngân hàng Trung ương: Là hình thức các NHTM trong trường hợp cần bổ sung nhu cầu vốn khả dụng và phải phù hợp với mục tiêu của NHNN trên cơ sở sự điều tiết của chính sách tiền tệ cũng như sự kiểm soát gắt gao của NHNN. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn được


11

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023