(3) Công nghệ và cơ sở vật chất. Việt Nam cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong cho vay lại vốn ODA tại TCTD. Malaysia và Thái Lan là những quốc gia thành công trong việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quản lý nguồn vốn vay nước ngoài. Bằng cách đưa toàn bộ các đề nghị thanh toán lên mạng, sử dụng các phần mềm chuyên nghiệp, công nghệ cao để theo dõi, giám sát các cơ quan liên quan đến quản lý vốn ODA. Nhờ vậy, vốn ODA cho vay lại được quản lý một cách minh bạch, tránh các hiện tượng lãng phí, tham nhũng.
Thứ ba, Đánh giá hiệu quả xã hội của dự án đầu tư bằng vốn vay ODA.
Đánh giá dự án ODA được các quốc gia trên chú trọng. Trung Quốc thực hiện chế độ báo cáo và kiểm toán dự án ODA giai đoạn đưa vào vận hành. Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm kiểm toán các dự án ODA theo pháp luật và báo cáo trước Quốc hội về hiệu quả của dự án. Việt Nam cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá, chấm điểm xếp hạng dự án và áp dụng một cách nhất quán trong suốt quy trình quản lý dự án sử dụng vốn ODA cho vay lại, đánh giá đồng thời nhiều dự án.
Thứ tư, Tăng cường giám sát đảm bảo vốn ODA cho vay lại được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Tại Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan, sử dụng vốn vay ODA tại các dự án được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, được giám sát nghiêm ngặt để đảm bảo hiệu quả của khoản vay. Đối với Việt Nam, công tác kiểm tra, giám sát cần phải tiến hành thường xuyên, liên tục qua các hình thức kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với khoản vay lại, chủ đầu tư, tình hình thu hồi nợ, tình hình khai thác, vận hành công trình được đầu tư. Phát hiện kịp thời những sai sót, yếu kém trong việc thực hiện các quy định của pháp luật và điều ước quốc tế về ODA. Kiểm tra giám sát phải có sự kết hợp giữa Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư và cơ quan cho vay lại.
Thứ năm, Thu hồi nợ khoản vay và quản lý rủi ro.
Trong cho vay lại vốn ODA, Malaysia và Thái Lan là những nước có tỷ lệ nợ quá hạn thấp, dưới 1%. Để đạt được kết quả đó, Quỹ Đầu tư quốc gia (KN) hay ngân hàng Krungthai đã thực hiện kế hoạch thu hồi nợ khoản vay ODA một cách khoa học và chặt chẽ. Đối với cơ quan cho vay lại của Việt Nam, cần lập kế hoạch
thu nợ một cách chi tiết theo từng dự án ODA, phải phân tích tình hình khoản nợ và giám sát định kỳ; thường xuyên đôn đốc, đối chiếu và xác nhận tình hình nợ với dự án. Đẩy mạnh xử lý nợ quá hạn, thực hiện các biện pháp hỗ trợ chủ đầu tư hoặc biện pháp thu hồi nợ từ tài sản BĐTV hoặc bán nợ.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Tiêu Chí Đánh Giá Hiệu Quả Kinh Tế Xã Hội
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Cho Vay Lại Vốn Oda
- Bài Học Kinh Nghiệm Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Cho Vay Lại Vốn Oda Tại Tổ Chức Tín Dụng Đối Với Việt Nam
- Ký Kết Vốn Oda Của Các Nhà Tài Trợ Giai Đoạn 1993 - 2017
- Tổ Chức Thực Hiện Cho Vay Lại Vốn Oda
- Thực Trạng Hiệu Quả Cho Vay Lại Vốn Oda Tại Ngân Hàng Phát Triển Việt Nam
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
Bên cạnh đó, các cơ quan cho vay lại vốn ODA đều tăng cường các biện pháp quản lý rủi ro để đảm bảo an toàn hoạt động cho vay lại vốn ODA. Các ngân hàng, Quỹ căn cứ vào điều kiện hoạt động cụ thể để xây dựng mô hình QLRR, thực hiện đo lường và kiểm soát rủi ro cho vay lại vốn ODA nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Thứ sáu, Đảm bảo hiệu quả tài chính đối với hoạt động cho vay lại vốn ODA
Các tổ chức cho vay lại vốn ODA của các nước đều thực hiện phân tích riêng biệt hiệu quả tài chính đối với hoạt động cho vay lại vốn ODA, đóng góp của thu nhập cho vay lại vốn ODA trong toàn hệ thống ngân hàng. Tại Malaysia, Quỹ đầu tư quốc gia (KN) đã tạo ra hiệu quả tài chính lớn, thu nhập từ hoạt động này chủ yếu từ nguồn kinh phí quản lý cho vay lại vốn ODA và các khoản cấp bù chênh lệch lãi suất, cấp bổ sung từ ngân sách. Ngân hàng Krungthai của Thái Lan hay Quỹ KN đều thực hiện phương thức cải tiến liên tục trong quản lý cho vay lại vốn ODA, rà soát cắt giảm chi phí để tăng cường lợi nhuận và đảm bảo hiệu quả tài chính trong cho vay lại vốn vay nước ngoài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Hiệu quả cho vay lại vốn ODA tại các TCTD không chỉ đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu của TCTD, mà còn đóng góp vào phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia. Với mục đích là xây dựng khung lý thuyết cho toàn bộ Luận án, chương 1 đã tập trung nghiên cứu và làm rõ các vấn đề cụ thể sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về cho vay lại vốn ODA tại các TCTD như khái niệm, các hình thức cho vay lại vốn ODA và quy trình cho vay lại vốn ODA;
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hiệu quả cho vay lại vốn ODA tại các tổ chức tín dụng. Luận án đưa ra khái niệm, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay lại vốn ODA tại các TCTD;
Đồng thời, dựa trên nghiên cứu những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới điển hình là Malaysia, Trung Quốc và Thái Lan, tác giả đã rút ra bài học cho Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả cho vay lại vốn ODA tại các TCTD.
Kết quả nghiên cứu của chương 1 là tiền đề để tác giả nghiên cứu thực trạng, trên cơ sở đó phân tích và đánh giá khách quan hiệu quả cho vay lại vốn ODA tại VDB. Toàn bộ nghiên cứu thực trạng được trình bày trong chương 2 của Luận án.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY LẠI VỐN ODA TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. CHO VAY LẠI VỐN ODA TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1.1. Tổng quan về Ngân hàng Phát triển Việt Nam
2.1.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam
VDB là tổ chức đầu mối quản lý tài chính đầu tư phát triển của Chính phủ, là công cụ thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước. VDB được thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg, ngày 19/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. VDB có thời hạn hoạt động là 99 năm kể từ khi thành lập.
VDB có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ 30.000 tỷ đồng, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. VDB được ngân sách nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý, được Chính Phủ đảm bảo khả năng thanh toán, không phải dự trữ bắt buộc và tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn nộp thuế và các khoản phải nộp NSNN. VDB là một định chế tài chính quan trọng cung cấp nguồn lực tài chính cho nền kinh tế, đảm bảo cho hoạt động ĐTPT được chuyên nghiệp và hiệu quả hơn nhằm phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các cam kết của Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế [36].
VDB là ngân hàng chính sách, hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, thực hiện các chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau [7],[36]:
(1) Hoạt động huy động vốn:
- Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh theo quy định của pháp luật;
- Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, giấy tờ có giá bằng đồng Việt Nam của VDB theo quy định;
- Vay Bảo hiểm xã hội Việt Nam; vay của các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước và nước ngoài theo quy định;
- Vay tái cấp vốn tại NHNN Việt Nam;
- Nhận tiền gửi ủy thác của các tổ chức trong nước và nước ngoài;
- Huy động các nguồn vốn khác phù hợp với quy định của pháp luật.
(2) Hoạt động tín dụng:
- Cho vay theo chính sách tín dụng của Nhà nước; cho vay các chương trình, dự án do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao;
- Bảo lãnh tín dụng cho các DN nhỏ và vừa vay vốn tại ngân hàng thương mại theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;
- Cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ;
- Cho vay vốn ngắn hạn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với nguyên tắc ngân sách nhà nước không cấp bù chênh lệch lãi suất.
(3) Hoạt động ủy thác và nhận ủy thác:
- Nhận ủy thác huy động vốn, ủy thác cho vay theo quy định;
- Nhận ủy thác điều hành hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DN nhỏ và vừa và quỹ tài chính địa phương theo mục tiêu phát triển của địa phương;
- Ủy thác cho các TCTD thực hiện một số hoạt động của VDB theo quy định;
- Ủy thác, nhận ủy thác cung ứng các dịch vụ tài chính, ngân hàng cho khách hàng theo quy định của pháp luật.
(4) Tham gia thị trường liên ngân hàng; tổ chức thanh toán nội bộ; cung cấp các dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngoại hối và các dịch vụ ngân hàng khác cho khách hàng; thực hiện hoạt động ngoại hối; tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
(5) Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chính phủ giao.
2.1.1.2. Tổ chức bộ máy quản lý
Bộ máy quản lý của VDB được tổ chức theo hệ thống ngành dọc và thực hiện nhiệm vụ thống nhất từ trụ sở chính đến các đơn vị trực thuộc. Cơ cấu tổ chức quản lý của VDB theo quyết định 1515/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc. Tổ chức bộ máy quản lý của VDB theo sơ đồ sau:
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
2 SỞ GIAO DỊCH
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
BỘ MÁY ĐIỀU HÀNH
BAN KIỂM SOÁT
CHI NHÁNH
HỘI SỞ CHÍNH
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy quản lý tại VDB [7], [36]
Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị VDB, thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của chủ sở hữu vốn nhà nước tại VDB, nhân danh VDB để quyết định, thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của VDB, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của chủ sở hữu, Bộ Tài Chính; chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu, Bộ Tài chính trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.
Ban kiểm soát thực hiện kiểm soát, đánh giá việc chấp hành quy định của pháp luật, quy định nội bộ, điều lệ và nghị quyết, quyết định và các văn bản chỉ đạo khác của chủ sở hữu và Bộ Tài chính, Hội đồng quản trị.
Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật, điều hành hoạt động của VDB. Giúp việc cho Tổng giám đốc là các Phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng, các đơn vị thuộc và trực thuộc Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Hệ thống mạng lưới các đơn vị thuộc và trực thuộc hiện nay của VDB gồm: 02 Sở Giao dịch, 41 Chi nhánh (12 chi nhánh khu vực, 29 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố) và Văn phòng đại diện tại TP. Hồ Chí Minh.
2.1.2. Khái quát về vốn ODA cho vay lại tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam
2.1.2.1. Khái quát về vốn ODA của Việt Nam
Vốn ODA được coi là một bộ phận của đầu tư công, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện sự nghiệp đổi mới Đất nước. Kể từ năm 1993, vốn ODA đã
được Chính phủ quan tâm thu hút, công tác quản lý và sử dụng được tăng cường nhằm đảm bảo tính hiệu quả, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam. Cùng với sự phát triển nền kinh tế, sự thay đổi trong chính sách của các nhà tài trợ, khung pháp lý về quản lý và sử dụng ODA cũng không ngừng hoàn thiện. Quản lý và sử dụng vốn ODA hiện nay chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp lý của Nhà nước, cụ thể như Luật Đầu tư công 2014, Luật Quản lý nợ công 2017, Nghị định 16/2016/NĐ-CP về quản lý và sử dụng vốn ODA, Nghị định số 132/2018/NĐ- CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 16, Nghị định số 97/2018/NĐ-CP về cho vay lại vốn ODA, Quyết định 1489/QĐ-TTg năm 2018 về phê duyệt định hướng thu hút, quản lý và sử dụng ODA, Thông tư số 12/2016/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thông tư số 111/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Trong những năm gần đây, quản lý vốn ODA của Nhà nước cũng đã đẩy mạnh thực hiện theo cơ chế cho vay lại (vay lại - hoàn trả nợ vay). ODA cho vay lại tại các TCTD là một trong những nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, được sử dụng chủ yếu để thực hiện các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, các dự án kinh tế trọng điểm nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA của Việt Nam
Tính đến hết năm 2017, tổng vốn ODA Chính phủ đã ký kết với hơn 54 nhà tài trợ quốc tế song phương và đa phương đạt hơn 81 tỷ USD, giải ngân đạt khoảng 80% ODA ký kết, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế.
Thực tế huy động vốn ODA của Việt Nam cho thấy, số vốn ODA cam kết từ các nhà tài trợ nước ngoài hàng năm tăng trưởng khá mạnh, đạt bình quân mỗi năm khoảng 4,12 tỷ USD. Nếu như những năm trước 2004, ODA cam kết chỉ đạt dưới 2,8 tỷ USD mỗi năm, thì năm 2010 số cam kết đạt 8,06 tỷ USD, từ năm 2011 đến nay, vốn ODA cam kết có xu hướng giảm nhưng vẫn duy trì ở mức cao, năm 2017 số cam kết đạt khoảng 3,5 tỷ USD. Giai đoạn 1993 - 2017, tổng vốn ODA ký kết đạt trên 81 tỷ USD, chiếm 78,1% ODA cam kết, trong đó vốn vay ODA đạt 74,14 tỷ USD, chiếm 91,4%; ODA cho vay lại đạt 37,4 tỷ USD, chiếm khoảng 46,12%.
Giải ngân vốn ODA đã được đẩy mạnh. Tính đến năm 2017, tổng vốn ODA giải ngân đạt 65,12 tỷ USD, chiếm 80,32% ODA ký kết. Những năm gần đây, nhờ
sự nỗ lực của Chính phủ, các ngành, các cấp và nhà tài trợ, tình hình giải ngân ODA có nhiều cải thiện với chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, mức giải ngân vẫn chưa đạt mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới.
Biểu đồ 2.1: Cam kết, ký kết, giải ngân ODA của Việt Nam giai đoạn 1993 - 2017
Nguồn: Báo cáo vốn ODA giai đoạn 1993 - 2017, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Vốn ODA theo các nhà tài trợ
Việt Nam hiện nay có hơn 54 nhà tài trợ quốc tế thường xuyên hỗ trợ vốn ODA để phát triển kinh tế và xã hội, trong đó bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 26 nhà tài trợ đa phương. Ngoài ra, còn có khoảng hơn 600 các tổ chức phi Chính phủ quốc tế với số tiền viện trợ hàng năm khoảng 200 triệu USD.
Trong các nhà tài trợ song phương, Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất với khoảng 27,14 tỷ USD, Pháp đứng thứ hai với 3,04 tỷ USD, Hàn Quốc đứng thứ ba với 2,39 tỷ USD. Các nhà tài trợ đa phương thì WB đứng đầu với khoảng 25,44 tỷ USD, ADB đứng thứ hai với 16,22 tỷ USD vốn ODA ký kết.