Một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa - 2

của ngân hàng cũng được thực hiện theo cơ chế đó, cho nên hiệu quả kinh tế của ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế không được quan tâm nhiều. Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kế hoạch hoá được thực hiện theo Nghị định 75/NĐ-CP. Với nguyên tắc cứng nhắc, kém hiệu quả. Cụ thể phương thức thanh toán lòng vòng, chậm chạp (một khoản chuyển tiền thanh toán chi trả tiền hàng khi thực hiện phải mất rất nhiều thời gian từ 5-10 ngày). Vì công cụ thanh toán kém linh hoạt, thủ tục phức tạp, các phương tiện làm việc lạc hậu, và thực hiện thanh toán bằng thủ công. Do điều kiện kỹ thuạt lạc hậu, công cụ thanh toán nói trên dẫn đến tốc độ luân chuyển vốn chậm chạp, thiếu chính xác, cung cấp thông tin không kịp thời và không đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thanh toán làm ảnh hưởng đến tốc độ và kéo dài chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá.

Ngoài công cụ thanh toán nghèo nàn ngân hàng còn có quy định cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế chỉ được mở tài khoản tiền gửi tại địa phương mình hoạt động (cùng địa phương).Khách hàng không được tự do lựa chọn ngân hàng dẫn đến không có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng.

Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp việc thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta tuy đã được áp dụng khá rộng rãi trong nền kinh tế nhằm giảm bớt lượng tiền mặt đi vào lưu thông bằng cách ngân hàng đã quy định cho các doanh nghiệp định mức tồn quỹ tiền mặt, định mức tạo chi... nhưng vẫn kém hiệu quả, cụ thể những năm đó lượng tiền mặt trong lưu thông rất lớn, ngân hàng ở trong tình trạng khan hiếm tiền mặt, như vậy ngân hàng chưa làm tốt chức năng thanh toán của mình để giúp cho nền kinh tế phát triển. Ngân hàng được xây dựng theo mô hình một cấp gồm Ngân hàng Nhà nước và các chi nhánh vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng ngân hàng vừa thực hiện chức năng kinh doanh hoạt động theo phương thức kế hoạch hoá tập trên từ dưới lên trên.

2. Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.


Khi nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi ngành ngân hàng phải tiến hành sửa đổi, bổ sung nhằm

hoàn thiện chế độ, thể lệ thanh toán và áp dụng tiến bộ khoa học vào kỹ thuật thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp và đáp ứng được yêu cầu đa dạng hoá của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.

Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53 về tổ chức bộ máy ngân hàng theo Nghị định này hệ thống ngân hàng bắt đầu được chia thành hai cấp.

- Cấp quản lý: Là Ngân hàng Nhà nước có chức năng độc quyền phát triển tiền, quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng trên tầm quản lý vĩ mô.

- Cấp kinh doanh: Là các ngân hàng chuyên doanh thuộc sở hữu nhà nước và vẫn trực thuộc ngân hàng trung ương. Các ngân hàng này có chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

Sau khi hai pháp lệnh ngân hàng ra đời ngày 23/05/1990 đã đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường là lần lượt các Ngân hàng Thương mại, ngân hàng cổ phần được thành lập, chi nhánh ngân hàng nước ngoài... Năm 1990 hệ thống kho bạc ra đời mà chức năng quản lý quỹ ngân sách nhà nước. Bắt đầu của thời kỳ thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện bằng quyết định 101/NH-QĐ ngày 30/07/1991. Quyết định này ban hành các thể lệ chế độ thanh toán không dùng tiền mặt bằng bốn công cụ sau:

- Séc,

Một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa - 2


- Uỷ nhiệm chi,


- Uỷ nhiệm thu,


- Thẻ tín dụng,


Sau một thời gian thực hiện bốn công cụ trên chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đa dạng hoá của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng nhu cầu cấp bách của thị trường Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung và ra quyết định số

22/QĐ - NH1 ngày 22/02/1994 theo quyết định này đã bổ sung thêm hai công cụ thanh toán mới đó là :

- Ngân phiếu thanh toán


- Thẻ thanh toán


Riêng thanh toán bằng séc đã được bổ sung thêm séc cá nhân nhằm thu hút và tạo điều kiện cho người dân quen dần với công việc thanh toán qua ngân hàng. Sau đó ngày 09/05/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 30/CP về việc sử dụng séc mới trong cả nước áp dụng kể từ ngày 01/04/1997 thay thế cho các loại séc cũ. Việc áp dụng công cụ thanh toán mới đã đáp ứng được những yêu cầu thanh toán đa thành phần trong nền kinh tế, mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế đều có thể tham gia trực tiếp thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá, dịch vụ phát triển, góp phần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Từ khi đổi mới chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điều này đã được chứng minh trên các mặt sau:

- Qua các công cụ thanh toán liên hàng giữa các ngân hàng trong toàn quốc và thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước đã có bước tiến bộ rõ rệt. Từ khi áp dụng kỹ thuật máy vi tính để thanh toán liên hàng (trong cùng hệ thống ngân hàng công thương) tiến tới thanh toán điện tử thực hiện từ ngày 01/07/1996 trong toàn hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. Khi thanh toán điện tử các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong thanh toán điện tử được hoàn tất trong một ngày làm việc. Trường hợp khách hàng yêu cầu chuyển nhanh và hoàn tất trong thời gian từ 1-3 giờ (khách hàng phải chịu phí dịch vụ khẩn theo quy định).

- Qua thanh toán bù trừ: Các Ngân hàng Thương mại, tổ chức tín dụng, kho bạc khi tham gia thanh toán bừ trừ được giao nhận chứng từ hai phiên trong ngày qua đĩa mềm (tại ngân hàng chủ trì là ngân hàng nhà nước).

Việc áp dụng thanh toán điện tử, thanh toán bừ trừ đã làm tăng nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt thời gian chiếm dụng vốn, mức độ an toàn cao, tiện lợi cho các khách hàng, rút ngắn thời gian chu chuyển vốn của doanh nghiệp và cá nhân.

- Bổ sung hai công cụ thanh toán mới: ngân phiếu thanh toán và thẻ thanh toán, sửa đổi một số quy định trong các công cụ thanh toán truyền thống lạc hậu đã thấy rõ ngân hàng đã làm tốt chức năng thanh toán, đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế nhiều thành phần.

- Việc ngân hàng từng bước áp dụng công nghệ tin học tiên tiến vào thanh toán nhằm hạn chế sai sót nhỏ của thao tác thủ công, tăng nhanh tốc độ luân chuyển nhằm thu hút khách hàng, tạo lòng tin của ngân hàng đối với doanh nghiệp và cá nhân. Đồng thời cũng nâng cao trình độ của ngành ngân hàng trong nước tiến kịp các ngân hàng trong khu vực và thế giới.

- Việc khách hàng được tự do lựa chọn ngân hàng để hoạt động đã tạo điều kiện mở rộng mạng lưới thanh toán không dùng tiền mặt. Để thu hút được nhiều khách hàng ngân hàng phải nâng cao uy tín của mình bằng chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng trên thương trường.

Xuất phát từ sự đổi mới này, thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta, đặc biệt từ sau quyết định 22/QĐ-NH đã tăng nhanh về số lượng, chất lượng và các thành phần tham gia. Như vậy lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt đã không ngừng được mở rộng ở mọi thành phần kinh tế. Việc nâng cao và cải tiến áp dụng khoa học tiên tiến vào kỹ thuật thanh toán luôn là khâu mấu chốt quan trọng để ngân hàng đảm bảo thanh toán nhanh, an toàn rút ngắn thời gian thanh toán, chính xác tiện lợi, góp một phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới kinh tế thị trường của đất nước. Qua đó nó cũng tỏ rõ ưu thế hơn hẳn của thanh toán không dùng tiền mặt so với thanh toán bằng tiền mặt.

III. Những quy định mang tính nguyên tắc về thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt nam.

Hiện nay ở nước ta thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện theo quyết định 22/QĐ-NH1 ngày 21/2/1994 và Thông tư hướng dẫn số 08/TT-NH2 ban hành ngày 02/6/1994 và mới đây là nghị định 30/CP ngày 09/5/1996 của Chính phủ và Thông tư 07/TT - NH1 ngày 27/12/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện quy chế phát hành và sử dụng séc. Trong đó có các quy định:

1. Quy định chung:


“Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể...công dân Việt nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt nam (gọi chung là đơn vị hay cá nhân) đều có quyền lựa chọn ngân hàng để mở tại khoản giao dịch và thực hiện thanh toán”.

Với quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình kinh doanh, họ sẽ tìm thị trường thuận lợi nhất để hoạt động, lựa chọn những ngân hàng có uy tín, chất lượng và phục vụ tốt nhất cho nhu cầu thanh toán của họ. Từ đó tạo cho khách hàng có điều kiện mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình trên toàn quốc mà vânx tiến hành giao dịch thanh toán chi trả một cách thuận lợi, nhanh chóng và an toàn.

Đối với ngân hàng quy định này đòi hỏi mỗi một ngân hàng phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt bằng cách phải đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và sử dụng máy vi tính thành thạo để nắm bắt được những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, bên cạnh đó thái độ phục vụ khách hàng của cán bộ nhân viên phải nhiệt tình, hướng dẫn đơn vị và cá nhân làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt theo đúng chế độ ban hành. Nhằm nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường và thu hút được nhiều khách hàng.

2. Quy định đối với khách hàng:


2.1. Quy định đối với bên mua (bên phải trả)


''Để thực hiện thanh toán đầy đủ, kịp thời, các chủ tài khoản (bên trả tiền) phải có đủ số dư trên tài khoản. Mọi trường hợp thanh toán vượt quá số dư trên tài khoản

tiền gửi tại ngân hàng, kho bạc nhà nước là vi phạm chế độ thanh toán và phải bị xử lý theo pháp luật ''.

Quy định này nhằm tránh tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các bên tham gia thanh toán, giúp cho người chi trả cũng như người thụ hưởng chủ động vốn của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần tăng nhanh vòng quay vốn của các đơn vị kinh tế cũng như tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong toàn bộ nền kinh tế.

2.2. Quy định đối với bên bán (bên thụ hưởng)


''Người thụ hưởng khi nhận được các chứng từ thanh toán phải kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ này (ghi đầy đủ mọi yếu tố quy định, không sửa chữa tẩy xoá các chữ ký và dấu phải đúng với mẫu chữ ký đã đăng ký ở ngân hàng). Nộp các chứng từ thanh toán vào ngân hàng đúng với thời gian quy định cho từng loại chứng từ. Nếu thiếu một trong các điều kiện trên, giấy tờ thanh toán sẽ không hợp lệ, không có giá trị thanh toán ''.

Quy định này nhằm bảo vệ an toàn tài sản cho các khách hàng kể cả người chi trả, người thụ hưởng và ngân hàng tránh tình trạng sơ hở để kẻ gian lợi dụng tham ô.

3. Quy định đối với ngân hàng (người thực hiện thanh toán).


Ngân hàng Thương mại và kho bạc nhà nước có trách nhiệm thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài khoản, đảm bảo chính xác, kịp thời, an toàn, thuận tiện. Các Ngân hàng Thương mại và kho bạc nhà nước có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt hay chuyển khoản trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản.

Ngân hàng Thương mại và kho bạc Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản (bên trả tiền) trước khi thực hiện việc thanh toán, đồng thời được quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền hoặc chứng từ thanh toán không đầy đủ các yếu tố quy định. Ngân hàng Thương mại hay kho bạc nhà nước không chịu trách nhiệm về nội dung liên đới của hai bên khách hàng. Nếu do

thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng và kho bạc nhà nước phải bồi thường thiệt hại tuỳ theo mức độ.

- Ngân hàng Thương mại và kho bạc nhà nước chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản khách hàng cho các cơ quan bên ngoài khi có văn bản của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật.

- Khi thực hiện các dịnh vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được thu phí theo qui định của Thống đốc ngân hàng nhà nước.

Qui định này đã hoàn toàn xoá bỏ mặc cảm trước đây của khách hàng về thanh toán ngân hàng, tạo sự tin tưởng tuyệt đối của khách hàng khi mà họ có số lượng vốn không nhỏ giữ tại ngân hàng và uỷ quyền cho ngân hàng thanh toán.

Qui định cũng phân biệt trách nhiệm vật chất, pháp lý rõ ràng giữa ngân hàng và khách hàng khi một trong hai bên vi phạm chế độ thanh toán, nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và quy định những khoản phí mà họ phải trả cho ngân hàng khi thực hiện thanh toán. Việc thu phí dịch vụ thanh toán làm tăng khoản thu nhập của ngân hàng.

IV.Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng ở nước ta hiện nay:

Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các mối quan hệ kinh tế xã hội, trong quá trình hoạt động kinh tế, ngày nay hầu hết các ngân hàng đã và đang từng bước đưa công nghệ tiên tiến, tin học hoá vào khâu thanh toán song song với việc thực hiện áp dụng khoa học kỹ thuật, ngành ngân hàng cũng ra sức hoàn thiện các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.

Thanh toán không dùng tiền mặt là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Nó được áp dụng rộng rãi khắp trên thế giới. ở Việt Nam thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng trong ngân hàng kể từ khi ngân hàng mới được thành lập. Để phù hợp với yêu cầu đổi mới nền kinh tế và đổi mới hoạt động ngân hàng theo cơ chế thị trường, trước đây theo quyết định số 22/QĐ - NH1 ban hành ngày 21/2/1994 và hiện

nay theo nghị định 30/CP của chính phủ ban hành ngày 09/5/1996 ngân hàng đang áp dụng các thể thức sau.

- Thanh toán bằng tiền séc


- Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chyuển tiền


- Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu


- Thanh toán bằng thẻ tín dụng


- Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán


- Thanh toán bằng thẻ thanh toán


1. Thanh toán bằng séc:


Séc được thực hiện thanh toán qua ngân hàng từ năm 1951(khi ngân hàng Việt Nam thành lập) theo quyết định 101/QĐNH ra đời rồi thay thế bằng quyết định 22/QĐ của thống đốc ngân hàng Nhà nước ngày 21/2/1994 và gần đây nhất là nghị định 30/CP ngày 09/5/1996 của Chính phủ đã quy định thống nhất việc thanh toán bằng séc qua ngân hàng.

Séc là loại giấy tờ thanh toán do chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của ngân hàng, được giao trực tiếp cho người hưởng sau khi đã nhận hàng hoá và được cung ứng dịch vụ sau đó ngân hàng trích tài khoản của mình cho người được hưởng có tên trên tờ séc.

Trong quan hệ thanh toán gồm có 3 chủ thể:


- Người phát hành: Là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc người được uỷ quyền ký tên để phát hành tờ séc theo đúng quy định của pháp luật về uỷ quyền. Người phát hành séc phải chịu mọi trách nhiệm pháp lý về việc pháp hành séc của mình theo đúng thủ tục của ngân hàng quy định và phải chịu phạt khi phát hành quá số dư.

Xem tất cả 64 trang.

Ngày đăng: 04/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí