Tiểu kết Chương 1
Doanh nghiệp xã hội ở nước ta ngày càng có vai trò quan trọng, góp phần giải quyết hiệu quả, bền vững các vấn đề xã hội. Trong nền kinh tế thị trường vẫn đang trong giai đoạn chuyển đổi ở nước ta, sự công nhận chính thức đối với doanh nghiệp xã hội trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 có ý nghĩa quan trọng trong việc kết nối giữa khu vực Nhà nước với khu vực tư nhân, là công cụ hữu hiệu để phát huy các sáng kiến xã hội, huy động các nguồn lực để giải quyết các nhu cầu của cộng đồng.
Tuy nhiên, để phát huy tối đa sức mạnh và tiềm lực của doanh nghiệp xã hội cần phải có một khung pháp lý ổn định, chi tiết cho tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp xã hội. Trong tương lại, việc ban hành một đạo luật riêng về hỗ trợ doanh nghiệp xã hội là vô cùng cần thiết.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1. Sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.
* Thời kỳ trước đổi mới 1986
“Doanh nghiệp xã hội” là thuật ngữ mới xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỷ XX. Trong cơ chế tập trung bao cấp, Nhà nước là chủ thể duy nhất có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ xã hội được phân phối tới người dân. Sự hình thành và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội như: Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên... luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, gắn chặt với hệ thống quản lý Nhà nước và là nơi duy nhất qua đó cá nhân có thể tham gia vào hoạt động cộng đồng. Trong thời kỳ này, các loại hình tổ chức xã hội độc lập với Nhà nước như các NGO không được phép hoạt động ở Việt Nam. Bên cạnh đó, chỉ có kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể được công nhận là hai thành phần kinh tế chủ đạo của đất nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Một số vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 2
- Đặc Điểm Cơ Bản Của Doanh Nghiệp Xã Hội .
- Nhu Cầu Điều Chỉnh Pháp Luật Đối Với Doanh Nghiệp Xã Hội .
- Thực Trạng Pháp Luật Việt Nam Về Doanh Nghiệp Xã Hội.
- Một số vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 7
- Một số vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 8
Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.
Trong bối cảnh ấy, hợp tác xã (HTX) là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội phù hợp duy nhất được thành lập để đáp ứng một số nhu cầu đặc biệt của xã viên theo tinh thần cộng đồng: hợp tác, chia sẻ và cùng hưởng lợi. HTX được coi là một tổ chức thuộc sở hữu cộng đồng, đồng thời là một đơn vị kinh tế độc lập. Nhiều HTX ra đời với mục đích tương trợ các hội viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như HTX thương binh, HTX của người khuyết tật... Các mô hình này đã có những hỗ trợ rất tích cực và hiệu quả cho các đối tượng thuộc chính sách xã hội nói trên góp phần làm giảm gánh nặng đối với chính sách an sinh xã hội của Nhà nước cho nhóm đối tượng này. Chính vì vậy, HTX có thể được coi là mô hình doanh nghiệp xã hội sớm nhất ở Việt Nam. Việc phát triển HTX, đặc biệt là HTX trong lĩnh vực đảm bảo chính sách an sinh xã hội đối với một số nhóm đối tượng yếu thế, đảm bảo quá trình góp sức lao động, góp của cải vật chất làm ăn chung, dưới sự hỗ trợ của Nhà
nước góp phần quan trọng vào việc hình thành nên một mô hình doanh nghiệp xã hội đầu tiên ở Việt Nam.
Với tính chất như vậy, trong số các HTX ra đời trong giai đoạn này, chúng ta thấy bên cạnh các HTX mang tính sản xuất là chủ yếu như HTX nông nghiệp, HTX tiểu thủ công nghiệp... thì một số không nhỏ được thành lập để tạo việc làm, hỗ trợ cuộc sống cho những đối tượng yếu thế của xã hội, chủ yếu là người khuyết tật. Hầu hết HTX của người khuyết tật hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp như mây tre, đan thêu, may mặc... bởi đây được coi là những việc làm phù hợp với sức khỏe và điều kiện lao động của họ. Đây là đặc trưng điển hình của một doanh nghiệp xã hội mà các HTX này đã có. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một mô hình mang tính chất tương tự như các doanh nghiệp xã hội. Còn trong giai đoạn này, ở Việt Nam chưa có khái niệm doanh nghiệp xã hội cũng chưa thực sự có doanh nghiệp xã hội nào được thành lập và hoạt động trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước.
* Giai đoạn Đổi mới từ năm 1986 đến năm 2010
Ở Việt Nam, mặc dù trong các giai đoạn trước doanh nghiệp xã hội đã bắt đầu xuất hiện dưới hình thức HTX từ rất lâu, nhưng các doanh nghiệp mang tính chất xã hội với mục tiêu xã hội và có đầy đủ các đặc điểm cơ bản của mô hình doanh nghiệp xã hội chỉ bắt đầu phát triển kể từ khi chính sách đổi mới được thực hiện vào năm 1986. Đây là cột mốc đánh dấu sự thừa nhận các thành phần kinh tế mới là kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ. Nhờ đó, vai trò chủ động của cá nhân và cộng đồng trong việc cung cấp và trao đổi các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người dân đã được công nhận và phát triển.
Thời kỳ Đổi mới đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế của Việt Nam. Đặc biệt là chính sách mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa các giao lưu kinh tế, dẫn đến việc các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn viện trợ phát triển đối với Việt Nam tăng nhanh chóng. Sự gia tăng của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) đã thổi một luồng gió mới vào các quan hệ kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này. Các mô hình doanh nghiệp mới được du nhập, các cách thức quản trị mới từ nước ngoài được áp dụng ở Việt Nam. Bên cạnh đó, mô hình doanh nghiệp hoạt động phi lợi nhuận, hoạt động vì mục tiêu xã hội đã theo chân các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đem lại những phúc lợi xã hội rất lớn cho xã hội Việt Nam giai đoạn này.
Đây là giai đoạn Nhà nước có nhiều chính sách cởi mở, tạo lập khung khổ pháp lý cho sự phát triển các tổ chức kinh tế và xã hội ngoài Nhà nước. Các chính sách này đã giúp các tổ chức và doanh nghiệp phát triển cộng đồng thực sự nở rộ. Số liệu thống kê cho thấy có tới hơn 1000 tổ chức NGO, 320 hiệp hội hoạt động cấp quốc gia và 2150 hội hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện và tự chủ ở Trung ương và địa phương. Hầu hết tất cả các tổ chức này nhận hỗ trợ tài chính từ các tổ chức NGO quốc tế và nhà tài trợ để duy trì hoạt động và cung cấp dịch vụ cho cộng đồng. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có hàng nghìn tổ chức có tính cộng đồng như nhà văn hóa, câu lạc bộ và mảng phụ trách hoạt động kinh doanh thuộc các tổ chức chính trị - xã hội quần chúng (ví dụ như: Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Người tàn tật...) và hàng nghìn đơn vị sự nghiệp đang thực hiện chức năng cung cấp phúc lợi xã hội của Nhà nước (mang lại các dịch vụ công cộng như quản lý chất thải, nguồn nước...). Các tổ chức này đều có một số đặc điểm của doanh nghiệp xã hội và có khả năng chuyển thành doanh nghiệp xã hội trong tương lai. [16]
Nhìn chung, giai đoạn Đổi mới là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội ngoài Nhà nước, trong đó có doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, sự tách biệt hai lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội cả trong tư duy lẫn hoạt động thực tế đã hạn chế sự ra đời của mô hình hỗn hợp như doanh nghiệp xã hội. Giai đoạn này đã xuất hiện những doanh nghiệp xã hội khá điển hình, hoạt động dưới nhiều hình thức đa dạng như Trường Hoa Sữa, Doanh nghiệp xã hội KOTO, Công ty TNHH Mai
Handicrafts tại Thành phố Hồ Chí Minh... Các doanh nghiệp xã hội trong giai đoạn này tuy còn ít, phương thức hoạt động chưa hiệu quả, khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động còn thiếu tuy nhiên cũng cho thấy tiềm năng rất lớn cho sự hình thành và phát triển cho doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.
* Từ năm 2010 đến nay
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển.
So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình), đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, với sức tăng trưởng kinh tế trong những năm qua, Việt Nam không còn thuộc nhóm các nước nghèo và vì thế những nguồn tài trợ từ các tổ chức thế giới ngày càng giảm.
Việc dừng các chương trình hỗ trợ phát triển, hỗ trợ xã hội từ các nguồn vốn nước ngoài, cộng thêm việc ngân sách Nhà nước dành cho an sinh xã hội còn khá hạn chế đã đặt cho Việt Nam một thách thức trong việc đạt được các giải pháp tốt về an sinh xã hội.
Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển mô hình doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội là rất cần thiết. Doanh nghiệp xã hội giải quyết được cả hai mục đích xã hội và kinh tế, trong đó mục tiêu xã hội là mục tiêu chủ đạo, thông qua mục tiêu kinh tế để đạt được mục tiêu xã hội.
Một nghiên cứu năm 2011 do Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) - Hội đồng Anh phối hợp cùng với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã cho thấy, ở Việt Nam có đến gần 200 tổ chức có đầy đủ đặc điểm để trở thành một doanh nghiệp xã hội, trong số đó, được hình thành sớm nhất là Hợp tác xã Nhân đạo thuộc Hội người khuyết tật Hà Nội, thành lập năm 1973. Tuy nhiên, cho đến Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT- BKHĐT ngày 17/5/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội, thì doanh nghiệp xã hội mới được pháp luật ghi nhận và nhận diện một cách khá đầy đủ.
Tính đến thời điểm cuối năm 2016, số liệu do Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội công bố cho thấy, trong hơn 1 năm, số lượng doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam đã tăng lên gấp đôi, từ khoảng 3.000 doanh nghiệp lên hơn 6.000 doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp xã hội tiêu biểu như Zó-Project, Trang trại Hữu cơ Tôi tự nhiên (I-Nature), Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Phát triển Cộng đồng… Mặc dù đã có cơ sở pháp lý cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam, song số lượng doanh nghiệp xã hội chưa nhiều, quy mô còn nhỏ và ảnh hưởng xã hội chưa lớn.
2.2. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam hiện nay.
2.2.1. Những thuận lợi của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới phong trào doanh nghiệp xã hội phát triển mạnh mẽ và lan tỏa trên nhiều lĩnh vực. Ở Việt Nam, doanh nghiệp xã hội đang tiếp tục phát triển, mở rộng, được xã hội biết đến và tôn vinh. doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển, nếu biết năm bắt những thuận lợi này tạo thành thời cơ thì doanh nghiệp xã hội Việt Nam sẽ có nhiều bước tiến mới trong tương lai.
Thứ nhất, nhu cầu sử dụng dịch vụ phúc lợi cho người dân ngày càng
tăng, do đó cần doanh nghiệp xã hội đóng vai trò hỗ trợ Nhà nước cung cấp các dịch vụ này cho các nhóm đối tượng khác nhau.
Thứ hai, ưu thế của doanh nghiệp xã hội so với doanh nghiệp thông thường đó chính là việc Nhà nước tạo hành lang pháp lý để mô hình doanh nghiệp này được ưu đãi về tài chính, tiếp nhận viện trợ. Các doanh nghiệp xã hội nói chung có thể tiếp nhận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài theo quy định của pháp luật về tiếp nhận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài. Ngoài ra, doanh nghiệp xã hội được tiếp nhận tài trợ từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt nam. Đó chính là nguồn lực quan trọng để các doanh nghiệp xã hội có thể thực hiện được mục tiêu xã hội, môi trường đã đăng ký.
Thứ ba, trong quá trình cải cách hành chính, một trong những nhiệm vụ quan trọng là cải cách khu vực sự nghiệp xông lập, chuyển đổi hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, tự chủ quản lý, tự chịu trách nhiệm, tách bạch sự nghiệp với hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu quả sử dụng vốn, Theo đó, mô hình doanh nghiệp xã hội có thể xem là mô hình phù hợp đối với việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ tư, các doanh nghiệp xã hội mới thường áp dụng tốt sự phát triển khoa học kỹ thuật, do đó sản phẩm làm ra có giá cả cạnh tranh so với các sản phẩm cùng loại. Ngoài ra là sự phát triển và ứng dụng của “kinh tế chia sẻ” đã huy động được số lượng lớn cộng đồng quan tâm tới các dự án của những doanh nghiệp xã hội mới này.
Thứ năm, xu hướng cho thấy cần thiết chuyển đổi vai trò của Nhà nước từ người trực tiếp cung cấp dịch vụ phúc lợi sang vai trò người mua dịch vụ phúc lợi từ các tổ chức, doanh nghiệp. Điều này tạo cơ hội cho các chủ thể xã hội khác ngoài Nhà nước (các tổ chức xã hội, khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp, cộng đồng...) tham gia cung ứng các dịch vụ công cho người dân.
Thứ sáu, hoạt động vì mục đích xã hội, cho nên, những người sáng lập doanh nghiệp xã hội, ban lãnh đạo, quản lý hoặc những tình nguyện viên đều là
những con người tâm huyết với mục đích đã lựa chọn. Họ có thể khắc phục được mọi khó khăn từ tài chính tới thiếu vắng các quy định pháp luật để hoạt động.
Với những thuận lợi này, doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam hoàn toàn có cơ hội để phát triển và hội nhập với hệ sinh thái doanh nghiệp xã hội trên thế giới.
2.2.2. Một số khó khăn của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam.
Doanh nghiệp xã hội vẫn còn là một lĩnh vực rất mới mẻ ở Việt Nam, điều này dẫn tới một loạt những khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp xã hội Việt Nam đang phải đối mặt.
Thứ nhất, Doanh nghiệp xã hội phải hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội phải là doanh nghiệp, được đăng ký, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Đây là một quy định hết sức khiên cưỡng, không phù hợp với thông lệ quốc tế về mô hình doanh nghiệp xã hội. Quy định như trên đã loại bỏ một số mô hình hết sức phù hợp với các mục đích xã hội, môi trường, đó là hợp tác xã. Ở Việt Nam các HTX không được coi là doanh nghiệp, mà chỉ được coi là “tổ chức kinh tế tập thể” hình thành trên cơ sở “sở hữu tập thể”. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội không được thành lập dưới hình thức HTX. Quy định này đã bỏ qua các đặc tính ưu việt rất phù hợp với các mục tiêu xã hội của các HTX đó là tính chất sở hữu tập thể, tinh thần cộng đồng. Trên thực tế, từ trước năm 1986 nhiều doanh nghiệp xã hội thực tế đã tồn tại ở nước ta dưới hình thức hợp tác xã như “hợp tác xã thương binh”, “hợp tác xã người tàn tật”… các cơ sở này có những đóng góp đáng kể trong việc tạo công ăn việc làm và cuộc sống tích cực cho cho các xã viên là những nhóm người dễ bị tổn thương, khó hòa nhập trong xã hội. Bởi vậy, các HTX chính là một mô hình rất phù hợp cho các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.
Thứ hai, quy định về việc sử dụng ít nhất 51% lợi nhuận để tái đầu tư. Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động luôn phải sử dụng tối thiếu 51% tổng