Những Nghiên Cứu Trong Nước Về Rối Nhiễu Tâm Lý.

Bắt đầu có sự quan tâm và nghiên cứu về sức khỏe tâm lý ở thanh thiếu niên ở các nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan và các nước châu Á khác [103], chưa có nghiên cứu về sức khỏe tâm lý sinh viên Việt Nam từ năm 2010 trở về trước.

Kết quả của một nghiên cứu định tính của nhóm tác giả H.J Hoekstra, B.B Van Meijel, T.G Van der Hooft-Leemans (2010), siên sinh viên Điều Dưỡng năm nhất về nhận thức đối với các bệnh nhân tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần ảnh hưởng đến sự lựa chọn của họ về chuyên môn trong việc chăm sóc sức khỏe tâm thần và tương lai làm việc trong lĩnh vực này, phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc sinh viên học tại một trường học của Hà Lan [54], kết quả sinh viên Điều Dưỡng năm nhất có ấn tượng, chủ yếu là nhận thức tiêu cực đối với người bệnh là bệnh tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần. Những nhận thức mạnh mẽ ảnh hưởng sự lựa chọn tương lai nghề nghiệp của mình.

Khảo sát mối quan hệ giữa cách đối phó, lòng tự trọng, các yếu tố cá nhân và sức khỏe tâm lý trong 515 sinh viên Điều Dưỡng được lựa chọn từ bốn Viện Công cộng và các trường Cao Đẳng tại Tây An của Trung Quốc bằng một phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên, nhóm tác giả C.Ni, X.Liu và cộng sự 2010, họ đã sử dụng thang đo tự đánh giá SCL-90. Trên cơ sở tổng số điểm của thang đo SCL-90 đạt được trong cuộc khảo sát, gồm điểm nhóm thấp (100 SV) và nhóm điểm cao (100 SV). Sau đó thiết kế nghiên trường hợp bắt cặp được kiểm soát được thực hiện để xác định những mối quan hệ giữa cách đối phó, lòng tự trọng, các yếu tố cá nhân và sức khỏe tâm thần. Ngoài ra thống kê mô tả, phân tích Chi bình phương, t-test và phân tích hồi quy logistic đa biến cũng được sử dụng. Các hoạt động đối phó lòng tự trọng điểm của các nhóm điểm số cao đã được tìm thấy là thấp hơn nhiều so với những người trong nhóm điểm thấp (p<0,05). Phân tích hồi quy Logistic đa biến cho rằng học tập stress gấp 10 lần, khoảng tin cậy 95% là từ 3,3 đến 30,7 trong năm qua. Tự hài lòng cao, tỉ số chênh là 3,7% (OR= 0,037, KTC 95% từ 1,4% đến 9,7% và lòng tự trọng tăng lên khoảng 35% dao động trong KTC 95% là từ 15,2 đến 83,8%, và nó được xem là các yếu tố phòng ngừa. Để cải thiện sức khỏe tâm lý của sinh viên Điều dưỡng, ngoài việc giảm stress học tập, tránh bị động trong đối phó, đó là điều rất cần thiết để sinh viên giảm thiểu stress, đẩy mạnh tự chủ, và phát triển lòng tự trọng [74].

Một yếu tố khác đó là sự kỳ thị của sinh viên đối với người bị rối nhiễu tâm lý- bệnh tâm thần, một khảo sát trên sinh viên Dược khoa tại Úc, Bỉ, Estonia, Phần Lan, Ấn Độ và Latvia, cho thấy sinh viên học tập trong bối cảnh này thường biểu lộ thái độ tiêu cực đối với người bị rối loạn tâm thần. Một vài nghiên cứu quốc tế đã tìm cách điều tra các yếu tố của sự kỳ thị. Để tiến hành so sánh quốc tế sự kỳ thị của sinh viên các nước đối với người có tâm thần phân liệt, và để xác định xem sự kỳ thị được liên kết với các thuộc tính khuôn mẫu nào của những người bị tâm thần phân liệt, tác giả M.A.Woods và cộng sự (2010) khảo sát 649 người tại 8 trường Đại học ở Australia, Bỉ, Ấn Độ, Phần Lan, Estonia và Latvia, bộ câu

hỏi (SDS) được sử dụng, và sáu yếu tố liên quan đến các thuộc tính khuôn mẫu của những người tâm thần phân liệt. Kết quả cho thấy trung bình là 19,65 ± 3,97 điểm SDS ở Úc, 19,61

± 2,92 ở Bỉ, 18,75 ± 3,57) ở Ấn Độ, 18,05 ± 3,12) ở Phần Lan, và 20,90 ± 4,04) ở Estonia

và Latvia. Mô hình tiên đoán là mạnh mẽ nhất có liên quan với việc có một khoảng cách xã hội cao tại Úc (beta= -1,29), quan niệm cho rằng mọi người sẽ không bao giờ phục hồi tại Ấn Độ (beta= -0,88), là nguy hiểm ở Phần Lan (beta=-1,47) và nhận thức được khó khăn để nói chuyện với người bệnh ở Estonia và Latvia (beta = -2,08), khoảng cách xã hội thấp hơn ở Bỉ (beta=0,839). Ngoài ra kết quả cũng chỉ ra rằng các mức độ mà học sinh có thái độ kỳ thị tương tự ở mỗi nước, tuy nhiên, các yếu tố của sự kỳ thị là khác nhau [102].

Kết quả về thái độ của sinh viên ngành Phục hồi Chức năng trong một nghiên cứu thực nghiệm có nhóm chứng. Dân số mục tiêu được chia thành 2 nhóm: sinh viên phục hồi chức năng là 219 người, nhóm 2 sinh viên khác (không thuộc ngành y) là 112 người. Tuổi từ 17-28 tuổi. Trong nhóm sinh viên PHCN, cho học 65 giờ về phục hồi chức năng tâm thần. Kết quả so sánh giữa hai nhóm cho thấy thái độ đối với bệnh tâm thần được tích cực vừa phải 103,3±9,9 điểm. Có một sự khác biệt nhỏ nhưng đáng kể giữa các sinh viên PHCN, sinh viên nữ có thái độ tích cực hơn đối với bệnh tâm thần so với sinh viên nam (Cohen d=0,44). Những sinh viên có kinh nghiệm về bệnh nhân tâm thần thì có thái độ có liên quan với thái độ tích cực (Cohen d=0,68) hơn, nghĩa là thái độ tích cực tăng sau khi hoàn thành một khóa học tâm thần (Cohen d=0,72) [81].

Vấn đề sức khỏe tâm lý và hành vi tìm kiếm giúp đỡ giữa các sinh viên đại học. Theo nhóm tác giả Hunt.J, Eisenberg.D rối loạn tâm thần phổ biến trong số các sinh viên đại học và các rối loạn này xuất hiện để được gia tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng [56].

Sức khỏe tâm lý của sinh viên Nữ Hộ sinh (Úc), tác giả Mc.Cann T.V, Clark.E và cộng sự khảo sát Trường Đại học Victoria, Melbourne, Victoria 8001, Australia. Phụ nữ mang thai và gặp vấn đề sức khỏe tâm lý sau sinh, có 38 SV được thăm dò, kết quả cho thấy rằng các sinh viên đã có một khái niệm chủ yếu là giáo dục sức khỏe cho phụ nữ và thông báo các can thiệp sức khỏe tâm lý cho phụ nữ sau khi sinh. Những phụ nữ có niềm tin tôn giáo thì mức độ rối loạn tâm lý sau khi sinh thấp hơn rất nhiều so với nhóm còn lại [69]. Yếu tố niềm tin trong bản thân của mỗi sinh viên, giúp cho họ giảm thấp tỉ lệ rối nhiễu tâm lý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Gần đây Úc cải cách chăm sóc sức khỏe, đã cố gắng để giải quyết giảm gánh nặng của bệnh mãn tính bằng cách áp dụng chăm sóc sức khỏe ban đầu. Bằng cách này, các nhân viên sức khỏe cộng đồng được thử thách để chứng minh sự hiểu biết và năng lực của họ để thực hành theo nguyên tắc chăm sóc sức khỏe ban đầu. Mô hình này đặc biệt thích hợp cho tương lai phát triển chương trình đào tạo Cử nhân Điều dưỡng và Điều dưỡng y tế cộng đồng ở Úc [102]. Ngoài ra còn có bằng chứng về sức khỏe nghề nghiệp, can thiệp tại nơi

làm việc có thể có hiệu quả những stress. Kompier đã chỉ ra rằng một số các can thiệp nhằm mục đích giảm bớt stress trong các trình điều khiển xe buýt đã có hiệu quả mang lại lợi ích cho nhân viên và các công ty xe buýt [61]. Là một cá nhân trở thành những người bị bệnh hoặc thương tích nghiêm trọng đối mặt với thực tế khác nhau rất nhiều stressors. Các cuộc họp stressors bao gồm các vấn đề y tế và các hoá đơn thanh toán; vấn đề nhận được chăm sóc đúng khi từ bệnh viện về nhà, trở ngại để chăm sóc cho người phụ thuộc, có một ý nghĩa của tự sự tin cậy công; Những stressors có thể dẫn tới trầm cảm, giảm tự tin, vv... Sức khỏe tâm lý cũng quan tâm riêng của mình với bệnh tật. Khi có ít hy vọng về phục hồi, sức khỏe tâm lý học trị liệu có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bằng cách giúp bệnh nhân khôi phục lại ít nhất là một số trong mình tâm lý tốt được. Sức khỏe tâm lý học khám phá quan trọng như thế nào chính sách y tế có thể ảnh hưởng trí tuệ, sự bất bình đẳng trong xã hội và cộng đồng. Các nghiên cứu mở rộng phạm vi của sức khỏe tâm lý vượt ra ngoài mức độ cá nhân, một kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng sức khỏe như kinh tế và xã hội nó đóng vai trò quyết định sức khỏe con người dể nhận diện nhất là những vùng địa lý giáp ranh và nội thị ở khu vực và các quốc gia [2].

Một số rối nhiễu tâm lý của sinh viên Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh - 3

Một nghiên cứu theo thời gian 4 năm (đoàn hệ tiến cứu), sinh viên 4 trường đại học y tại Na Uy vào năm 1993. Dữ liệu được thu thập bằng phiếu tự điền lần đầu năm thứ 1, năm thứ ba, năm thứ năm (hoặc thứ sáu). Trong 421 sinh viên, 375 trả lời bộ câu hỏi tự điền - đáp ứng tỉ lệ 89%, phụ nữ tỉ lệ 54%, độ tuổi trung bình là 22,1±3,1 tuổi, 302 sinh viên tham gia vào việc đánh giá lần thứ hai - đáp ứng tỉ lệ 72%, 59% phụ nữ, độ tuổi trung bình là 24,8

± 2,6 tuổi, 287 người đã tham gia đánh giá năm cuối cùng - đáp ứng tỉ lệ 68%, phụ nữ 55%, độ tuổi trung bình là 27,7 ± 2,5 tuổi. Tổng cộng có 236 học sinh trả lời trên cả ba lần là 56%, nữ sinh viên là 60%, tuổi trung bình là 21,6±2,5 năm.

Nghiên cứu theo chiều thời gian, phân tích quá trình sự hài lòng trong suốt thời gian sống và học tập tại trường Y khoa. So sánh mức độ thỏa mãn cuộc sống của sinh viên y khoa với sinh viên đại học khác. Hai mẫu được sử dụng để so sánh được thu được từ một nghiên cứu cắt ngang trên toàn quốc về chất lượng cuộc sống [28]. Các tiêu chí bao gồm nội dung bao trùm tất cả các sinh viên đại học ở các nhóm tuổi tương ứng. Trong số 3.500 người tham gia đã có 643 sinh viên đại học, (63% phụ nữ, tuổi trung bình là 23,2±1,6 năm) độ tuổi của sinh viên y khoa năm nhất, 136 sinh viên (51% phụ nữ, tuổi 27,7 ±1,9 năm) y khoa năm cuối [60]. Công cụ PMSS được phát triển bởi Vitaliano [96]. Các mục PMSS sử dụng một điểm Likert (quy mô 5 bậc). Một phân tích phương sai cho thấy yếu tố đầu tiên, lo âu học tập (0,8), nơi ở, làm chủ kiến thức, khả năng chịu đựng và trách nhiệm. Yếu tố thứ hai, cá nhân từ bỏ xã hội (0,7), giáo dục các bác sĩ, chi phí, lợi ích. Theo kết quả biến theo chiều thời gian và để xác định cảm nhận sự stress trong một thời gian dài, mỗi yếu tố được đo 2 lần (tiền kiểm và hậu kiểm) bằng tổng của các điểm của các mục tương ứng của nó trong các đánh giá cuối cùng hai (quy mô: 60-30). Có 1.640 sinh viên (Hàn Quốc) trầm cảm

chiếm 52%. Các yếu tố đó đã ảnh hưởng là dễ bị tổn thương, stress, hỗ trợ xã hội, đối phó [92].

Trong nghiên cứu khác của Crawford.J.R mô tả cắt ngang trên 1771 người, so sánh với thang đo trầm cảm và lo âu (HADS và SAD), và đo lường hiệu ứng tích cực và tiêu cực, hệ số tin cậy Alpha Cronbach là 0,93 [40].

Tác giả Bayram, Bilgel.N mô tả cắt ngang trên 1.617 sinh viên, trầm cảm, lo âu và stress mức độ nặng vừa phải hoặc cao hơn đã được tìm thấy ở 27%, 47% và 27% người trả lời tương ứng. Lo âu và stress đã được cao hơn điểm giữa các học sinh nữ. Sinh viên năm thứ hai tỉ lệ trầm cảm, lo âu và stress cao hơn năm khác. Những sinh viên mà hài lòng với nền giáo dục thì họ trầm cảm, lo âu và stress thấp hơn. Tỉ lệ trầm cảm, lo âu và stress cao giữa các sinh viên là đáng báo động [34],[93]. Theo Wong.J.G thì trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên năm thứ nhất trong hệ thống giáo dục Đại học ở Hồng Kông là cao. Thiết kế trên web (khuyết danh) về trầm cảm, lo âu và stress đã được đo DASS 42 có 7915 sinh viên tham gia, có tỉ lệ rồi nhiễu trầm cảm, lo âu và stress mức độ nặng là 21%, 41% và 27,5%. Tỉ lệ mức độ rối nhiễu trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên biểu hiện trong năm đầu tiên của cuộc sống ở trường là đáng báo động [91].

Nghiên cứu theo chiều dọc của Stewart.S.M [91] trên 121 sinh viên y khoa (81% của lớp) đã được khảo sát. Cuộc khảo sát đầu tiên đã diễn ra ngay trước khi bắt đầu đào tạo (đợt 1); các cuộc khảo sát thứ hai được khoảng 8 tháng sau khi bắt đầu các lớp học (đợt 2). Sử dụng các chiến lược tránh né đối phó dẫn đến gia tăng trầm cảm và lo âu; Ở đợt 2, hoạt động đối phó và thích ứng kết quả trầm cảm và lo âu giảm. Những phát hiện này cho thấy đặc điểm của học sinh dễ bị tổn thương những người có thể được xác định sớm trong năm đầu tiên của họ và cung cấp hỗ trợ thêm. Ngoài ra, thông tin về các chiến lược đối phó có hiệu quả tức là những nỗ lực tích cực đối phó và có nghĩa là không hiệu quả đối phó với stress tức là tránh né những nỗ lực đối phó có thể là hữu ích trong việc ngăn chặn nạn [91].

Stress, đối phó, và hạnh phúc trong năm thứ ba sinh viên y khoa, Mosley T.H.Jr, 69 sinh viên năm thứ ba hoàn thành lớp thư ký y khoa tại 1992-1993 tại ĐH Mississippi School of Medicine. Phương pháp phân tích thống kê bao gồm tương quan và hồi quy thứ bậc, mức độ trầm cảm là 16 người (tỉ lệ 23%), và 39 (57%) ở mức cao, Stress chiếm một tỉ lệ lớn các phương sai (29% đến 50%). Cuộc sống hài lòng và khả năng phục hồi trong 6 năm học tại Trường Y, và so sánh với sinh viên toàn quốc. Nhóm tác giả đã xem xét mối quan hệ giữa sự thỏa mãn cuộc sống giữa các sinh viên y khoa và một mô hình cơ bản của nhân cách, stress và đối phó [76], so với mức độ hài lòng của sinh viên y khoa với sinh viên đại học khác, và xác định các yếu tố khả năng phục hồi, kiểm định t.ttest cho các biến số có phương sai đồng nhất so sánh sự hài lòng của cuộc sống giữa và trong các nhóm dân cư, phân tích cluster đã được áp dụng để xác định các nhóm “con” giữa các sinh viên y tế. Phân tích biến

lượng và phân tích hồi quy được sử dụng để so sánh các nhóm con. Hài lòng cuộc sống giảm trong thời gian học y. Sinh viên y tế đã làm hài lòng là các học sinh khác trong năm học đầu tiên, nhưng ít hơn sự hài lòng trong năm tốt nghiệp của họ, sinh viên y những người duy trì ở mức cao sự hài lòng cảm nhận cuộc sống trường y như can thiệp ít hơn với đời sống xã hội và cá nhân của họ, và đã ít có khả năng sử dụng cảm xúc tập trung đối phó, chẳng hạn như mơ tưởng, hơn đồng nghiệp.

Theo Tunay.S, Soygüt.G và cộng sự để đánh giá mức độ lo âu khác thường trên hai nhóm học sinh khác nhau từ các Khoa khác nhau tuổi từ 17-25 tuổi. Nghiên cứu thử gồm 210 nữ và 170 nam sinh viên để đánh giá quy mô của thử nghiệm [92]. Điểm số giữa các nhóm trầm cảm và lo âu. Xem xét và phân tích tỉ lệ tham gia của sinh viên trong hoạt động thể chất ở mức độ cần thiết để thu được lợi ích sức khỏe. Nghiên cứu 19 trường tiểu học (xuất bản 1985-2001) đại diện cho tổng số 35.747 sinh viên (20.179 phụ nữ và 15.568 nam giới) từ tổng số 27 quốc gia (Australia, Canada, Trung Quốc, Đức, Nigeria, Hoa Kỳ, và 21 nước châu Âu) được mô tả và số tiền của hoạt động được xác định trong từng nghiên cứu được phân tích theo quy định của trường Cao đẳng Y học thể thao Mỹ (ACSM) hướng dẫn cho các hoạt động thể chất. Đối với các nguyên tắc này, hơn một nửa số sinh viên đại học ở Hoa Kỳ và Canada không hoạt động đủ để đạt được lợi ích sức khỏe. Quốc tế, cũng đúng, mặc dù sinh viên Úc xuất hiện để có mức cao nhất của hoạt động đầy đủ (60%). Phụ nữ, và đặc biệt là phụ nữ Mỹ gốc Phi, là một trong những ít nhất học sinh tích cực, và sinh viên sống ngoài trường được chủ động hơn so với những người trong khuôn viên trường. Thiếu hoạt động là một mối quan tâm sức khỏe nghiêm trọng giữa các sinh viên đại học. các can thiệp thích hợp và các công cụ để đo ACSM khuyến cáo hoạt động thể chất là cần thiết [57].

Thiếu hoạt động là một mối quan tâm sức khỏe nghiêm trọng giữa các sinh viên đại học. Các can thiệp thích hợp và các công cụ để đo ACSM-nên hoạt động thể chất là cần thiết. Nghiên cứu tại khoa Điều dưỡng và khoa Y tế Công cộng mới đây [18], sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang trên 401 sinh viên của 2 khoa, sử dụng những thang đo về các mức độ trầm cảm, lo âu, hạnh phúc và hy vọng, kết quả cho thấy sinh viên nữ có khuynh hướng lo âu nhiều hơn nhưng lại ít trầm cảm hơn sinh viên nam. Những yếu tố gia đình có ảnh hưởng đến mức độ trầm cảm của sinh viên nam trong khi những yếu tố liên quan đến môi trường học tập có mối liên hệ mạnh mẽ với mức độ trầm cảm của sinh viên nữ. Chiều hướng tích cực của sức khỏe tâm lý được đo lường thông qua các thang đo về hạnh phúc và hy vọng trên sinh viên nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến nhà trường. Đối với nữ, tất cả các nhóm biến độc lập bao gồm các đặc điểm về gia đình, nhà trường và xã hội, đều có tác động đến cảm nhận về hạnh phúc và hy vọng của họ.

Các vấn đề nổi bật về sức khỏe tâm lý sinh viên gặp phải là: khó tập trung vào công việc là 8,5%, cảm thấy mệt mỏi khi làm việc là 8,7%, ít nói hơn bình thường là 7,5%, cảm

thấy buồn là 7,1%. Nhiều đối tượng không cảm thấy hy vọng vào tương lai tỉ lệ 39% và đã cảm thấy không hạnh phúc là 46,8% trong vòng một tuần trước cuộc phỏng vấn. Tỉ lệ sinh viên từng có hành vi tự tử chiếm 0,9%. Với 778 đối tượng có trả lời câu hỏi thì tỉ lệ có hành vi tự tử trong 12 tháng qua là 14,4%, trong đó tỉ lệ tự tử ở nam giới là 6,3% và nữ là 8,1%. Khoảng 18% nam và 8,4% nữ hiện có sự lo âu về việc uống rượu của bản thân, khoảng 32% vị thành niên lo âu về việc uống rượu của cha mẹ họ, 21% lo âu về vấn đề bạo lực trong gia đình, 16% lo âu về vấn đề bị lạm dụng thân thể, 34% vị thành niên lo âu về việc tìm kiếm việc làm sau này. Khi được hỏi vấn đề quan trọng trong cuộc sống của vị thành niên-thanh niên, có đến 56,2% vị thành niên thanh niên cho rằng với họ hiện nay việc học tập là quan trọng nhất, tiếp đến tỉ lệ tương đối cao là 29,6% đối tượng cho rằng sức khỏe là vấn đề thứ hai họ cho là quan trọng. Vấn đề quan trọng tiếp theo là tìm được việc làm (22% đối tượng).

Để khám phá những vấn đề tâm lý hiện nay giữa y tế và sinh viên khoa Nha tại Iraq. Nghiên cứu này được thực hiện tại Khoa Dược, Đại học Y khoa, Đại học Mustansiriya, Baghdad, Iraq từ tháng 01- 5/2009. Tổng cộng có 440 sinh viên Y khoa và Nha khoa được yêu cầu để hoàn thành 12 mục (GHQ-12) và 30-mục (GHQ-30). Đo lường mức độ stress tâm lý của họ. Căn cứ vào GHQ-12, sử dụng đơn giản cho điểm thái độ (Likert), điểm>12 những sinh viên được phân loại là có khả năng bệnh tâm lý. Không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê của sinh viên 2 nhóm này (50,6%; 89 trong số 176) và y khoa (51,1%; 135 trong số 264), với một tỷ lệ tỷ số số chênh là 1,138. Dựa trên GHQ-30, các trường hợp có thể xảy ra (≥5 điểm) đã được báo cáo có ý nghĩa (p<0,001) cao hơn so với học sinh nha khoa gấp 3,3 lần (tỉ số chênh OR= 3,25)

Học sinh sử dụng Internet để tìm thông tin sức khỏe tâm lý và hỗ trợ. Đó là nhận ra rằng những người trẻ tuổi gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế chủ đạo tinh thần đặc biệt vì những sự kỳ thị vẫn còn liên kết với vấn đề sức khỏe tâm thần. Một trong những giải pháp tiềm năng là sử dụng nhiều trang website cung cấp thông tin có sẵn và hỗ trợ cho các vấn đề sức khỏe tâm thần, hỗ trợ, thông tin đó có thể được cung cấp bởi tâm thần. Tuy nhiên, người trẻ sử dụng và quan điểm về sử dụng Internet cho mục đích này vẫn chưa được kiểm tra. Điều này mô tả nghiên cứu định lượng nhằm gợi ra những quan điểm của 922 sinh viên, tuổi từ 18 đến 24 năm, về việc sử dụng Internet để thông tin sức khỏe tâm lývà hỗ trợ. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng một bảng câu hỏi 30-mục tự thiết kế và phân tích bằng cách sử dụng thống kê mô tả. Những phát hiện cho thấy 72,4% người tham gia sử dụng Internet nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, 30,8% trước đó đã tìm kiếm trực tuyến thông tin sức khỏe tâm thần, chủ yếu vào trầm cảm. Trong khi nó đã được tìm thấy rằng 68% người tham gia chỉ ra rằng họ sẽ sử dụng internet để hỗ trợ sức khỏe tâm lý nếu họ cần đến, có 79,4% vẫn còn muốn mặt đối mặt hỗ trợ. Đó là kết luận rằng những người trẻ sẵn sàng sử dụng internet để tìm thông tin sức khỏe tâm lý và rằng nó đại diện cho một nguồn hỗ trợ hữu hiệu đối với nhóm tuổi này.

1.1.2. Những nghiên cứu trong nước về rối nhiễu tâm lý.‌

Năm 2007 tác giả Kim Bình Giang, Nguyễn Văn Tuấn và cộng sự chuẩn hóa phiên bản Việt bộ câu hỏi tự tả lời (SRQ-20) trong việc phát hiện rối loạn tâm lý ở nông thôn Việt Nam, mẫu nghiên cứu trên 52 người trong bệnh viện huyện và 485 người trong cộng đồng. SRQ thực hiện tốt hơn đang kể trong độ 18-24 tuổi [52].

Sức khỏe tâm thần của sinh viên Y tế công cộng và sinh viên Điều dưỡng, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh và Michael Dunne [18], một nghiên cứu tại một thời điểm xác định các vấn đề về sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan (bao gồm cả yếu tố bảo vệ và yếu tố nguy cơ) có tác động đến sức khỏe tâm thần của sinh viên khoa Y tế công cộng và Điều dưỡng tại Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh. Nghiên cứu cho thấy sinh viên nữ có khuynh hướng lo âu nhiều hơn nhưng lại ít trầm cảm hơn sinh viên nam. Những yếu tố gia đình có ảnh hưởng đến mức độ trầm cảm của sinh viên nam trong khi những yếu tố liên quan đến môi trường học tập có mối liên hệ mạnh mẽ với mức độ trầm cảm của sinh viên nữ. Chiều hướng tích cực của sức khỏe tâm thần được đo lường thông qua các thang đo về hạnh phúc và hy vọng, trên sinh viên nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến nhà trường. Đối với nữ, tất cả các yếu tố bao gồm các đặc điểm về gia đình, nhà trường và xã hội, đều có tác động đến cảm nhận về hạnh phúc và hy vọng của họ.

Tỉ lệ rối nhiễu tâm trí và các yếu tố liên quan của sinh viên khoa Y tế công cộng Đại học Y Dược của nhóm tác giả Trần Ngọc Đăng và cộng sự (2010) xác định tỉ lệ rối nhiễu tâm trí và các yếu tố liên quan (bao gồm các yếu tố nhà trường, gia đình, bản thân) đến rối nhiễu tâm trí của sinh viên cho thấy tỷ lệ rối nhiễu tâm trí là 58,47%, không có sự khác biệt về tỷ lệ rối nhiễu tâm trí ở nam và nữ. Tìm thấy một số yếu tố gia đình, nhà trường, bản thân có liên quan đến rối nhiễu tâm lý.

Tác giả Lê Minh Thuận 2011 [24], khảo sát trên 252 sinh viên, tỉ lệ mức độ rất nặng- lo âu khoảng 7% là nữ và 4% là nam (chung là 11%), trầm cảm là 5% (nữ). Mức độ nặng - lo âu là 12%, stress là 2% và trầm cảm 2%. Có sự tương quan cao giữa các yếu tố stress, trầm cảm và lo âu của sinh viên, giữa lo âu và stress là r=0.7, giữa lo âu và trầm cảm là r=0.73, giữa stress và trầm cảm là r=0.65. Yếu tố rối nhiễu tâm lý: lo âu, trầm cảm, stress có mối liện hệ đáng tin cậy với Hy vọng cậy (r= -0.83, -0.85, -0.82), cho thấy yếu tố hy vọng là yếu tố tăng cường bảo vệ. Đây là mối liện hệ nghịch (r<0), tính hy vọng ở sinh viên cao thì giảm đi các rối nhiễu tâm lý và ngược lại rối nhiễu tâm lý tăng thì làm giảm hy vọng. Phương trình hồi quy đa biến được xác định là Hy vọng=47,81-0,37(lo âu) - 0,51(stress) – 0,33(trầm cảm), giải thích được 88,2% (R2=88,2). Không có liên hệ chặt chẽ nào giữa các

yếu tố khác với rối nhiễu tâm lý. Rối nhiễu tâm lý trong sinh viên là đáng quan tâm. Giảm tỉ lệ rối nhiễu tâm lý trong sinh viên, bằng cách tăng cường tính hy vọng cho sinh viên. Sức

khỏe Tâm lý cần được quan tâm và xem trọng trong chính sách và các vấn đề liên quan đến sinh viên [24].

Thực trạng stress, trầm cảm, lo âu ở trên 1078 học sinh THPT của Lê Anh Tuấn và cộng sự xác định tỉ lệ bị stress, trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan (bao gồm các yếu tố nhà trường, gia đình, bạn bè), có 66,5% học sinh bị stress, 46,3% học sinh bị trầm cảm, 73,9% học sinh bị lo âu và 34,1% học sinh bị cả ba hội chứng trên [21]. Nam giới bị rối loạn lo âu thấp hơn nữ giới là 0,92 lần, những học sinh có chơi thể thao bị stress và trầm cảm ít hơn những học sinh không chơi thể thao, stress sẽ giảm đi 87% và trầm cảm sẽ giảm 78%. Nghiên cứu cũng cho thấy yếu tố gia đình cũng không kém phần quan trọng. Những học sinh sống chung cùng cha mẹ bị trầm cảm và stress thấp hơn so với những học sinh không sống chung đầy đủ với cha mẹ, cụ thể là stress sẽ giảm 8,2% và trầm cảm sẽ giảm 7,7%.

Một nhóm tác giả khảo sát hình tượng về sức khỏe tâm thần trong dân số chung ở Tp.Hồ Chí Minh trong năm 2002 của Bệnh viện Tâm thần cho thấy cộng đồng hiểu biết về sức khỏe tâm thần còn ít và phiến diện tuy nhiên có sự đồng ý cao với khái niệm cuộc sống hạnh phúc là cuộc sống không có bệnh tật và chan hòa tình cảm của bản thân với mọi người xung quanh.

Nghiên cứu mới đây tại Việt Nam như bạo lực tình dục [58], [62], stress trong việc nuôi nấng con cái [20], làm giảm yếu tố nguy cơ [59], đo lường nguồn vốn xã hội [44], chương trình liên kết châu Á [49] nghiên cứu định tính trong số các nhân viên y tế và lãnh đạo các cấp huyện, xã, thuộc các huyện nông thôn phía Bắc Việt Nam, 20 nam và 20 nữ tham gia vào thảo luận nhóm có trọng tâm. Những người cung cấp thông tin tin rằng bạo lực không chỉ ảnh hưởng về thực thể mà còn cả về sức khỏe tâm lý của phụ nữ. Lạm dụng tình dục được đề cập ít nhất. Bạo lực tình dục (BLTD) được xem là riêng tư và không được thảo luận cởi mở trong cộng đồng. Phụ nữ sẽ tìm kiếm sự CSSK chỉ trong những trường hợp rất nghiêm trọng. Các nhóm hòa giải ở địa phương được dùng để dàn xếp các trường hợp BLTD. Nhân viên y tế dư thừa trong việc can thiệp. Nhân viên y tế có nhận thức về BLTD và lên án nó, nhưng không được chuẩn bị để can thiệp. Tình trạng này thường do không biết biểu hiện của vấn đề, hoặc không được đào tạo đầy đủ. Điều này tương tự với kết quả nghiên cứu ở các nước khác.

Mối đe dọa chính đối với sức khỏe tâm lý là những xã hội và điều kiện vật chất stress rằng chiến tranh tạo ra hoặc tăng cường: Mất mạng lưới xã hội và hệ thống hỗ trợ, đói nghèo, nhà ở quá chật chội và không an toàn, trẻ em thể chất và lạm dụng tình dục, ngoài lề xã hội, bị lạm tình dục trong và xung quanh các trại tị nạn, thiếu tiếp cận giáo dục, việc làm,… tâm lý học khám phá sức khỏe quan trọng như thế nào, chính sách sức khỏe có thể ảnh hưởng bất công, bất bình đẳng, và bất công xã hội.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 19/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí