Các Nhóm Yếu Tố Cấu Thành Nên Hiện Tượng Du Lịch


2.4 Phân loại theo môi trường


Hoạt động du lịch theo cánh phân loại này được chia thành hai nhóm: du lịch văn hoá và du lịch thiên nhiên

Du lịch thiên nhiên: Là chuyến hành trình đến thăm thú khám phá những nơi có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn. Trong nhóm du lịch này có thể chia thành các nhóm nhỏ hơn như: du lịch biển, du lịch núi, rừng, sông suối, du lịch nông thôn thành thị v.v… Khi xã hội ngày càng phát triển thì con người càng ít có cơ hội gần gũi với thiên nhiên. Bị bao bọc bởi những tiện nghi của cuộc sống hiện đại và áp lực công việc ngày càng gia tăng có thể làm cho con người ta mệt mỏi. Khi đó, việc hoà mình vào thiên nhiên là một nhu cầu nhằm giải toả căng thẳng, nâng cao sức khoẻ và đến với một môi trường đầy mới lạ đầy hấp dẫn.

Du lịch văn hoá: Là hoạt động du lịch chủ yếu diễn ra chủ yếu trong môi trường văn hoá hay có liên quan tới các yếu tố văn hoá tức là khai thác các tài nguyên văn hoá, nó có thể bao gồm: đi thăm các di tích, các công trình văn hoá, các lễ hội, phong tục v.v… Du lịch văn hoá hấp dẫn du khách bởi sự đậm đà, tính truyền thống cũng như sự độc đáo của từng địa phương. Du lịch văn hoá là một hướng mà các quốc gia đều chú trọng phát triển vì nó không chỉ góp phần gìn giữ mà còn là một kênh giới thiệu các giá trị văn hoá đáng quí với bạn bè trên khắp năm châu.

Ngoài ra còn có thể phân chia theo một vài tiêu chí khác như phân chia theo thời gian thành du lịch ngắn ngày và du lịch dài ngày; phân chia theo hành trình thành hành trình ngắn và hành trình dài; phân chia theo tiêu chí phương tiện thì có du lịch đường thuỷ, du lịch đường bộ v.v…

3. Đặc điểm của du lịch


Đặc điểm của hiện tượng du lịch là các dấu hiệu, yếu tố, tính chất khác biệt của du lịch với các hiện tượng khác. Việc nghiên cứu các đặc điểm của du lịch là rất cần thiết để hiểu rõ bản chất của du lịch và làm cơ sở cho những giải pháp, kế hoạch, chiến lược phát triển du lịch của đất nước. Là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp du lịch có nhiều đặc điểm riêng biệt rất khó liệt kê hết, dưới đây xin nêu ra một số đặc điểm chính yếu của du lịch.‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

3.1 Các nhóm yếu tố cấu thành nên hiện tượng du lịch


Một số giải pháp phát triển du lịch Việt Nam - 3

Có bốn nhóm yếu tố cấu thành nên hiện tượng du lịch bao gồm: Du khách, nhà cung cấp dịch vụ du lịch, chính quyền địa phương và người dân sở tại. Bốn nhóm yếu tố này có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, mối quan hệ giữa chúng được biểu hiện qua sơ đồ sau.

Hình 2: Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên hiện tượng du

lịch


Du khách: Là những người thực hiện các chuyến hành trình với mục đích du lịch. Họ phải là những người có thời gian nhàn rỗi, có nhu cầu đi du lịch và đủ khả năng tài chính để đi du lịch. Ngày nay khi mức sống và văn hoá của người dân ngày càng được nâng cao cộng thêm với sức ép của cuộc sống hiện đại thì nhu cầu du lịch cũng tăng theo và trở thành một nhu cầu phổ biến.


Nhà cung cấp dịch vụ: Là những người cung cấp trọn vẹn hay một phần của dịch vụ du lịch bao gồm các công ty du lịch lữ hành, nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, giải trí, nhà sản xuất đồ lưu nhiệm... Du khách khi có nhu cầu đi du lịch thì cần tới những nhà cung cấp dịch vụ du lịch để thoả mãn nhu cầu của mình.

Chính quyền địa phương: Sản phẩm du lịch là không thể di chuyển được, do đó nếu muốn tiêu dùng nó thì người có nhu cầu phải đến nơi có tài nguyên du lịch. Chính quyền địa phương là tổ chức quản lý tại nơi có tài nguyên du lịch. Về mặt kinh tế, du lịch mang lại một khoản thu cho địa phương. Nhưng về mặt xã hội, lại đặt ra những thách thức với vấn đề quản lý hoạt động kinh doanh du lịch và quản lý sinh hoạt của lượng khách từ nơi khác tới để không có tác động xấu đến môi trường tự nhiên, văn hoá, an ninh trật tự. Trên thực tế, nếu chính quyền địa phương tạo được một môi trường thuận lợi để phát triển du lịch, có hướng phát triển đúng đắn sẽ có tác động thu hút khách du lịch và tạo điều kiện cho việc kinh doanh du lịch tại địa phương phát triển mạnh mẽ.

Cư dân sở tại: Hiện tượng du lịch có tác động rất lớn đến cư dân sở tại khi nơi họ sinh sống xuất hiện rất nhiều du khách xen vào cuộc sống của họ. Xét về mặt kinh tế, nó mang lại cơ hội việc làm cho họ trong ngành du lịch. Về mặt xã hội, họ có cơ hội giao lưu văn hoá, tăng cường hiểu biết với nhiều người từ các vùng miền khác. Tức du lịch giúp cư dân sở tại tăng các mối quan hệ xã hội và mở rộng thế giới quan, nhân sinh quan. Thái độ của cư dân địa phương cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động du lịch, sự thân thiện, hiền hoà, của người dân địa phương giúp thu hút và tạo sự thoải mái cho du khách, nói cách khác sự hiếu khách của người dân cũng làm giàu thêm cho tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, du lịch cũng có thể gây ra tác động tiêu cực như tiêm nhiễm các thói hư tật xấu, ảnh hưởng đến văn hoá và nếp sinh


hoạt thường nhật của người dân.


Do có mối quan hệ tương tác lẫn nhau này của bốn nhóm yếu tố cấu thành nên hiện tượng du lịch nên ngành du lịch cần phải có sự phối hợp đồng bộ để hoạt động du lịch mang lại các lợi ích kinh tề và hiệu quả xã hội cao.

3.2 Đặc thù của sản phẩm du lịch


Như đã đề cập ở phần một, sản phẩm du lịch là sự kết hợp giữa yếu tố hữu hình và yếu tố vô hình, nó là toàn bộ những sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của họ. Sản phẩm du lịch về cơ bản có các đặc trưng:

Là sự kết hợp của nhiều sản phẩm dịch vụ, có thể liệt kê ra đây như dịch vụ di chuyển, phòng trọ, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tham quan, nghỉ dưỡng...

Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ, dịch vụ thường chiếm tới 80%-90%, hàng hoá chiếm tỉ lệ rất nhỏ do đó việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch là rất khó khăn.

Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Do đó sản phẩm không thể dịch chuyển được. Trên thực tế, du lịch gắn liền với việc di chuyển, không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải đến nơi có sản phẩm du lịch để thoả mãn nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch.

Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, phần lớn quá trình tạo ra và tiêu thụ sản phẩm du lịch không trùng nhau về không gian và thời gian do đó sản phẩm du lịch không thể cất trữ, tồn kho như các loại hàng hoá khác.

3.3 Tính thời vụ trong du lịch


Do sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau mà hoạt động du lịch mang tính thời vụ. Nghiên cứu tính thời vụ của du lịch luôn là vấn đề được


đặt ra đối du lịch nhằm bắt và quản lý tốt hoạt động du lịch. Tính thời vụ trong du lịch có thể hiểu là những thay đổi lặp đi lặp lại hàng năm đối với các dịnh vụ và hàng hoá của du lịch dưới sự tác động của các nhân tố nhất định. Các yếu tố tạo nên tính thời vụ của du lịch có thể nêu lên ở đây là:

Nhóm nhân tố mang tính tự nhiên: Trong nhóm nhân tố tự nhiên thì khí hậu là nhân tố có tính ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến du lịch, thông thường khí hậu tác động lên cả cung và cầu du lịch. Tuy nhiên khí hậu có ảnh hưởng khác nhau tới từng loại hình du lịch. Đối với du lịch thiên nhiên thì ảnh hưởng của nhân tố khí hậu là rất lớn, điều kiện khí hậu thuận lợi là cơ sở để nảy sinh cầu với du lịch tự nhiên. Ví dụ như với du lịch biển thì đòi hỏi phải có nhiệt độ không khí 25-300 C, cường độ ánh sáng và độ ẩm cao, chỉ mùa hè mới đáp ứng được những yêu cầu này do đó mùa hè là mùa du lịch chính tại các bãi biển. Nhưng đối với du lịch chữa bệnh, du lịch văn hoá... thì vào mùa xuân khi khí hậu trong lành và dịu mát mới là mùa thích hợp.

Nhân tố mang tính kinh tế-xã hội: Người ta chỉ đi du lịch khi nhàn rỗi, vậy lượng khách du lịch du lịch tăng lên khi có nhiều người có khoảng thời gian nhàn rỗi vào cùng một khoảng thời gian trong năm.

Sự phân bổ không đồng đều của quĩ thời gian nhàn rỗi của các nhóm dân cư gây ảnh hưởng không đồng đều lên lượng khách du lịch. Khi xem xét tác động của thời gian nhàn rỗi lên tính thời vụ phải xem xét ở cả hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là thời gian nghỉ phép trong năm có thể tác động lên thời vụ du lịch. Thực tế cho thấy ở những quốc gia có thời gian nghỉ phép ngắn thì số lần đi du lịch trong năm cũng ít. Người dân có xu hướng đi nghỉ vào các dịp lễ, tết nếu thời gian nghỉ ngắn họ sẽ chủ yếu đi du lịch vào dịp có thời gian nghỉ nhiều nhất chẳng hạn như dịp tết hay giáng sinh điều này có thể tạo nên mùa du lịch chính ở nhiều vùng, nhiều quốc gia.

Góc độ thứ hai của tác động thời gian nhàn rỗi lên du lịch là thời gian


nghỉ của các trường học. Thời gian nghỉ này, học sinh có một lượng thời gian nhàn rỗi khá lớn do đó các bậc phụ huynh thường bố trí những chuyến du lịch vào thời gian không phải đến trường của học sinh để cả gia đình có thể cùng nhau vui vẻ mà không ảnh hưởng đến kế hoạch học tập của con em mình. Tại các quốc gia, học sinh đều có kỳ nghỉ hè do đó mùa hè thường là mùa du lịch chính ở hầu hết mọi nơi, một số quốc gia còn có thêm kỳ nghỉ đông cũng góp phần làm tăng lượng khách du lịch vào mùa đông tăng lên đáng kể.

Phong tục tập quán: Phong tục tâp quán là một trong số các yếu tố tác động trực tiếp lên lượng khách du lịch và tạo nên sự tập trung lượng khách du lịch du lịch vào những thời vụ nhất định.

Thông thường những phong tục tập quán có tính chất lịch sử do đó nó khá bền vững. Cùng với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội có thể tạo nên những phong tục mới nhưng khó có thể thay đổi được những phong tục cũ. Ở Việt Nam, ta có thể thầy rõ những tác động của phong tục tập quán, theo phong tục mùa xuân là mùa của những tháng hội hè, lễ bái. Tháng hai tháng ba âm lịch thì hầu hết các chùa đều tổ chức hội bất kể thời tiết thuận lợi hay không như hội Chùa Hương, hội Chùa Thầy, hội Đền Hùng, Hội Lim...

Các nhân tố khác: Ngoài ra còn có một số nhân tố khác tác động lên tính mùa vụ của du lịch có thể kể thêm ở đây như:

Chất lượng của dịch vụ du lịch: Chất lượng dịch vụ du lịch có thể có ảnh hưởng đến độ dài của thời vụ du lịch. Ví dụ như một khách sạn ở vùng biển có thể có thời gian phục vụ khách trong năm dài hơn một số khách sạn khác khi nó có chất lượng tố hơn và có khả năng thoả mãn các nhu cầu phụ trợ khác ngoài phục vụ nhu cầu tắm biển chẳng hạn như nó có hội trường lớn, có bể bơi kín, trung tâm chữa bệnh, massage, khu vui chơi giải trí...

Yếu tố tâm lý: Du lịch là một nhu cầu do đó nó cũng tác động của yếu


tố tâm lý, chẳng hạn có thể có một trào lưu mốt về một loại hình du lịch nào đó.

Tâm lý bắt chước: Ngoài mốt thì cầu du lịch còn có thể bị tác động bởi tâm lý bắt chước. Ví dụ như ở Trung Quốc, mọi người đều xem ai chưa đến Tây Hồ coi như chưa đến Hàng Châu do vậy du khách nào đến Hàng Châu đều đến vãn cảnh Tây Hồ.

Tính thời vụ về cơ bản tác động bất lợi đến hoạt động du lịch. Vì tính mùa vụ mà du lịch vào chính vụ thì quá tải làm giảm chất lượng dịch vụ, có thể ảnh hưởng đến đời sống của dân cư sở tại, giao thông, môi trường, khó khăn cho việc quản lý đối với chính quyền địa phương do lượng khách đổ về quá đông. Vào các mùa khác thì lượng khách thưa thớt không đảm bảo hiệu quả kinh doanh, một số lao động có thể mất việc, chính quyền thì bị giảm thu ngân sách. Do đó Nhà nước, chính quyền địa phương và các cơ sở kinh doanh du lịch phải phối hợp để giảm bớt tính thời vụ trong du lịch.

3.4 Lao động trong du lịch


Ngành du lịch mặc dù có liên quan tới nhiều ngành và nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng bản chất của nó bao gồm một số dịch vụ kinh doanh nhất định như: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tham quan giải trí, dịch vụ tĩnh dưỡng, nghỉ ngơi... do các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch đảm nhiệm. Do đó có thể chia lao động trong du lịch thành ba nhóm:

Nhóm lao động có chức năng quản lý Nhà nước về du lịch: Nhóm lao động này bao gồm những người làm việc trong các cơ quan quản lý về du lịch từ Trung ương đến địa phương. Bộ phận lao động này có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia và của từng địa phương, tham mưu chính quyền trong việc đề ra đường lối và chính sách phát triển du lịch bền vững và có hiệu quả. Mặt khác họ cũng đại diện


cho Nhà nước để hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch kinh doanh có hiệu quả cũng như kiểm tra giám sát các hoạt động kinh doanh đó. Từ chức năng và nhiệm vụ của mình, nhóm lao động này đòi hỏi phải có kiến thức tổng hợp và chuyên sâu về một số lĩnh vực mà công việc của họ liên quan một cách trực tiếp.

Nhóm lao động làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo du lịch: Nhóm lao động này gồm những người làm việc trong các cơ sở giáo dục và đào tạo như các cán bộ giảng dậy, nghiên cứu ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các cán bộ nghiên cứu ở các tổ chức các viện khoa học du lịch. Số lượng lao động này chiếm tỉ lệ rất thấp trong toàn lao động ngành du lịch nhưng họ là những người có hiểu biết và chuyên môn sâu về du lịch và có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch. Công việc của họ về cơ bản ổn định và có thu nhập đều đặn. Chất lượng của lao động làm việc trong ngành du lịch chịu tác động rất lớn của những người làm công tác đào do vậy bộ phận này cần phải được đào tạo bài bản, lâu dài hướng tới trình độ ngày một cao.

Nhóm lao động hoạt động trong ngành kinh doanh du lịch: Nhóm lao động này có thể phân chia thành hai nhóm nhỏ, nhóm lao động quản lý và nhóm lao động thừa hành

Nhóm lao động quản lý: Nhóm lao động quản lý trong lĩnh vực kinh doanh du lịch được hiểu là những người làm công tác quản lý thuộc các đơn vị kinh tế, cơ sở doanh nghiệp kinh doanh du lịch như khách sạn, hãng du lịch lữ hành, vận tải, nhà hàng... Lao động của họ có hai đặc điểm. Một là, lao động của họ trong lĩnh vực này là lao động trí óc, công cụ chủ yếu của lao động là tư duy. Người quản lý trong lĩnh vực kinh doanh du lịch dựa trên nghiên cứu các tình huống, từ đó bằng kiến thức và kinh nghiệm của mình đưa ra các quyết định cho quá trình kinh doanh du lịch. Hai là, lao động của

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/05/2022