TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG LỤA TƠ TẰM VIỆT NAM
Có thể bạn quan tâm!
- Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam - 2
- Tình Hình Sản Xuất Mặt Hàng Lụa Tơ Tằm .
- Vai Trò Của Nghề Tơ Lụa Đối Với Việt Nam.
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Sinh viên thực hiện : Vũ Lê Hà
Lớp :
Khóa :
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Xuân Nữ
Hà Nội, 11/2006
MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Chương I : Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh5
I. Khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 5
1. Khái niệm về cạnh tranh 5
2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh 7
II. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh 8
1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia 9
2. Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành 10
3. Năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp. 11
4. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 14
III. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm 15
1. Thị phần. 15
2. Chất lượng 16
3. Giá cả 17
4. Mẫu mã 19
5. Thương hiệu. 19
Chương II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam 23
I. Tình hình sản xuất mặt hàng lụa tơ tằm. 23
1. Khái quát về nghề tơ lụa truyền thống 23
2. Vai trò của nghề tơ lụa đối với Việt Nam. 25
3. Quy trình sản xuất và cơ cấu mặt hàng 28
4. Tình hình sản xuất. 30
II. Tình hình tiêu thụ 34
1. Tình hình tiêu thụ ở thị trường trong nước. 34
2. Tình hình xuất khẩu. 36
III. Đánh giá năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam 38
1. Chất lượng 38
2. Giá 39
3. Kiểu dáng sản phẩm. 40
4. Thương hiệu. 42
5. Nhận xét chung về năng lực cạnh tranh của mặt hàng 44
Chương III. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt
hàng lụa tơ tằm Việt Nam 46
I. Định hướng phát triển mặt hàng mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam 46
1. Quan điểm của Đảng về phát triển làng nghề truyền thống 46
2. Kế hoạch phát triển ngành hàng đến năm 2010. 47
II. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam 48
1. Đối với Nhà nước. 49
2. Đối với Hiệp hội. 54
3. Đối với doanh nghiệp. 56
Kết luận 70
Phụ lục 71
Tài liệu tham khảo 84
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là xuất khẩu của mỗi quốc gia, có vị trí ngày càng quan trọng và ngày càng được mở rộng. Xu thế này ngoài những tác động tích cực cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước đang phát triển, đòi hỏi mỗi nước phải có những định hướng phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện, lợi thế riêng của mình. Với truyền thống là một nước có thế mạnh về hàng nông sản xuất khẩu, ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới, xuất khẩu nông sản đã được quan tâm chú trọng phát triển.
Phát huy lợi thế so sánh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra những mặt hàng, những sản phẩm mũi nhọn, để hàng Việt Nam có thể đáp ứng nhu cầu trong nước, cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, mở rộng được thị phần ở thị trường nước ngoài, từ đó góp phần phát triển nền kinh tế trong nước và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Tuy nhiên để hội nhập thành công, Việt Nam cần phải có chiến lược hội nhập chủ động, theo đó lợi ích quốc gia phải được đảm bảo phát triển ở mức độ cao nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần.
Trong những năm gần đây, ngành dệt may của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao, giá trị hàng dệt may xuất khẩu tăng với tốc độ nhanh, từ 850 triệu USD năm 1995 lên 4,816 tỷ USD năm 2005. Đáng lẽ trong sự phát triển nhanh chóng của ngành dệt may phải kể đến sự tham gia của mặt hàng tơ tằm
- một nghề truyền thống của Việt Nam, nhưng hiện nay, lụa tơ tằm của Việt Nam tham gia xuất khẩu rất ít. Tại thị trường trong nước, lụa tơ tằm Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh gay gắt bởi lụa ngoại nhập từ các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Xuất phát từ thực tế đó và với mục đích góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm
Việt Nam, tôi xin lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Hy vọng với đề tài này tôi có thể góp một phần sức mình vào quá trình phát triển ngành tơ tằm nói riêng và nền kinh tế của đất nước nói chung trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài là nhằm mục đích phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của lụa tơ tằm Việt Nam ở thị trường trong và ngoài nước đồng thời đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh lụa tơ tằm Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn - thu thập thông tin, số liệu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí, Internet. Ngoài ra, đề tài còn dùng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích kinh tế, suy luận logic, tổng hợp thống kê, so sánh, đánh giá, phương pháp suy luận quy nạp, diễn dịch để phục vụ mục đích nghiên cứu.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có 3 phần như sau:
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh.
- Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam.
- Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam.
Chương I : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH.
I. Khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
1. Khái niệm về cạnh tranh.
Từ lâu, khái niệm về cạnh tranh đã được các học giả của các trường phái kinh tế khác nhau quan tâm. Các học giả thuộc trường phái tư sản cổ điển cho rằng: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình”. [3]
Theo từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh được xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”. Đó là hoạt động tranh đua giữa nhiều người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Trước đây, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh của các nhà tư bản. Theo C. Mác: “cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch”. Ở đây, C. Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà đặc trưng của chế độ này là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do vậy, theo quan niệm này thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh được xem là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Quan điểm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội.
Ở Việt Nam, đề cập đến "cạnh tranh" một số nhà khoa học cho rằng, cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá - dịch vụ (mua và bán) và đó là phương thức để dành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi, mục đích trực tiếp của hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành lợi thế để hạ thấp giá các yếu tố "đầu vào" của chu trình sản xuất - kinh doanh và nâng cao giá của "đầu ra" sao cho mức chi phí thấp nhất, giành được mức lợi nhuận cao nhất. Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là yếu tố thúc đẩy quá trình tích luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp. Và từ đó, cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với các điều kiện thị trường, đào thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng với thị trường, dẫn đến quá trình tập trung hoá trong từng ngành, vùng, quốc gia ...
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng của cơ chế thị trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Sẽ không có kinh tế thị trường nếu không có cạnh tranh. Một nền kinh tế thị trường cũng không thể nào phát triển tốt đẹp nếu không có sự cạnh tranh. Độc quyền gây ra sự kém hiệu quả trong mọi lĩnh vực và làm mất đi sự năng động của nền kinh tế. Trái lại, xét về lâu dài và toàn cục, cạnh tranh (cạnh tranh lành mạnh) là động lực phát triển và nâng cao năng suất, hiệu quả, sẽ dẫn đến sự tăng cường sản xuất, làm giảm giá hàng, làm tăng chất lượng của sản phẩm, dịch vụ, tăng cường hiệu quả của sự phân phối, góp phần vào tiến bộ kỹ thuật, tạo nên sự đổi mới và năng động cho nền kinh tế. Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự sống còn của doanh nghiệp. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua: ganh đua về giá cả, số lượng, dịch vụ, hoặc kết hợp các yếu tố này với các yếu tố khác nữa để tác động tới khách hàng...
Xét theo hướng tiếp cận của đề tài này, tôi xin tổng hợp thành khái niệm “cạnh tranh” như sau :
Cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao.
2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh.
Trong quá trình các chủ thể cạnh tranh với nhau, để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả năng nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể, được gọi là năng lực cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hoá nào đó trên thị trường (hàng hoá này phải thuộc một doanh nghiệp nào đó, một quốc gia nào đó) thì người ta cũng dùng thuật ngữ “sức cạnh tranh của hàng hoá” hoặc “năng lực cạnh tranh của hàng hoá”... đó cũng là chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hoá đó đối với khách hàng. Như vậy, hiện nay vẫn có nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ năng lực cạnh tranh.
Sức cạnh tranh là khái niệm được dùng trong lý thuyết tổ chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh (hay năng lực cạnh tranh) và được đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Sức cạnh tranh là khả năng của