Khái Quát Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Các Quy Phạm Về Miễn Trách Nhiệm Hình Sự Trong Pháp Luật Hình Sự Việt Nam.


Thứ ba, về phương diện nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong pháp luật hình sự, miễn TNHS là một trong những chế định mang tính nhân đạo sâu sắc với nội dung thực hiện chính sách “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với thuyết phục, giáo dục, cải tạo” trong đường lối xử lý của Nhà nước ta. Miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp hữu hiệu của Nhà nước thể hiện chính sách phân hóa tội phạm cũng như yêu cầu không cần thiết phải truy cứu TNHS người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật Hình sự quy định là tội phạm mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng, chống tội phạm.

Thứ tư, về phương diện kỹ thuật lập pháp, nếu những trường hợp miễn TNHS được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật Hình sự một cách chặt chẽ, đầy đủ, có hệ thống và phù hợp với thực tiễn thì đó cũng là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và hoàn thiện một số chế định khác có liên quan đến nó như: tội phạm, trách nhiệm hình sự, hình phạt, miễn hình phạt…Hơn nữa, nó còn thể hiện sự tiến bộ về mặt lập pháp hình sự trong việc xây dựng từng chế định của luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

1.3. Phân biệt miễn TNHS với miễn hình phạt

Miễn TNHS và miễn hình phạt là hai chế định quan trọng, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Luật Hình sự Việt Nam, mang giá trị nhân văn sâu sắc mà ở đó nguyên tắc chủ đạo, xuyên suốt trong chính sách hình sự của Nhà nước luôn là sự kết hợp giữa việc trừng trị với khoan hồng, khuyến khích người phạm tội tự giáo dục mình để nhận lấy sự tha miễn đó. Theo đó, việc nghiên cứu hai chế định này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền có ý nghĩa rất quan trọng thể hiện tư tưởng, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng thời kỳ nhất


định. Chính sách hình sự về tư tưởng nhân đạo được Đảng và Nhà nước ta thể hiện ở đường lối, hình thức xử lý đối với người phạm tội trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa mục đích trừng trị và mục đích giáo dục, phòng ngừa tội phạm; trong đó, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng mục đích giáo dục người phạm tội, đề cao tính “hướng thiện”.

Về cơ bản, hai chế định này có điểm giống nhau ở một số điểm sau: cả hai chế định đều xuất phát từ cơ sở của TNHS và phản ánh rò nét nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta; không cách ly người phạm tội và người bị kết án ra khỏi cuộc sống xã hội mà tạo điều kiện cho họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội; chỉ áp dụng khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định, không phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội, của quyết định hình phạt và án tích.

Tuy nhiên giữa miễn TNHS và miễn hình phạt có nhiều điểm khác nhau, thể hiện rò nét ở các điểm sau:

Một là, miễn TNHS là việc không bắt buộc người phạm tội phải chịu TNHS về tội mà họ đã thực hiện, còn miễn hình phạt thì không buộc người bị kết án phải chịu hình phạt về tội họ đã thực hiện. Riêng về đối tượng của miễn TNHS có thể là người đã bị kết án hoặc chưa kết án; đối tượng của miễn hình phạt là người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Hai là, người phạm tội được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ, điều kiện như: “khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do có sự thay đổi của chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi có quyết định đại xá” theo Điều 29 BLHS. Ngoài ra, người phạm tội có thể được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ được quy định tại BLHS: “khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn


Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 4

khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rò sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công chuộc tội và có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS thì có thể được miễn TNHS”.

Đối với người phạm tội được miễn hình phạt khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 54 BLHS đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Cụ thể: Khi quyết định mức hình phạt trong khung hình phạt, Tòa án có thể căn cứ và quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS; Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Ba là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng của chế định miễn TNHS rộng hơn so với chế định miễn hình phạt. Miễn TNHS được thực hiện bởi cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án tương ứng với từng giai đoạn tiến hành tố tụng; còn miễn hình phạt chỉ do tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng.

Bốn là, về hậu quả pháp lý: sau khi được miễn TNHS, người phạm tội được xem là không có án tích. Đối với miễn hình phạt, người bị kết án vẫn được xem là có án tích nhưng thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích.


Tóm lại, với các quy phạm của chế định miễn TNHS và miễn hình phạt có tính chất nhân đạo nêu trên, nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm thích nghi với các yêu cầu của pháp luật để trở lại cuộc sống bình thường, phấn đấu thành người lương thiện để có ích cho xã hội. Tuy nhiên, xét về góc độ chính trị-xã hội, chế định miễn TNHS giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng xác định chính xác và đúng đắn trường hợp nào người phạm tội và hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc không cần thiết phải áp dụng TNHS mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng, chống tội phạm, góp phần giảm bớt các chi phí của Nhà nước trong từng giai đoạn tương ứng với quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, nhất là chi phí, nguồn lực sẽ được cắt giảm nhiều nếu việc miễn TNHS được áp dụng ở giai đoạn đầu. Mặt khác, việc áp dụng chế định miễn THNS sẽ không gây mặc cảm, tự ti đối với người phạm tội vì họ được “tha miễn”, không được xem là có án tích như chế định hình phạt. Vì vậy, sẽ giúp họ mau chóng hòa nhập với cộng đồng và tích cực hướng thiện, làm những việc có ích cho xã hội.

1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.

1.4.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam bước vào thời kỳ khôi phục lại nền kinh tế, thiết lập các quan hệ pháp luật của Nhà nước non trẻ trong điều kiện hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Song song với nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc, Đảng và Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội, phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị. Trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn của đất nước, Pháp luật hình sự thời kỳ này chưa mang tính thống nhất, còn tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau.


Đối với khái niệm miễn TNHS vẫn còn là một vấn đề mới mẽ nên trong các văn bản pháp lý chính thống chưa đề cập đến khái niệm miễn TNHS. Tuy nhiên, xuất phát từ ưu điểm của Nhà nước ta là nhà nước “của dân do dân vì dân” nên các giá trị nhân đạo luôn là những giá trị cốt lòi xuyên suốt trong hệ thống pháp luật. Trong thực tiễn xét xử và một số văn bản pháp lý đã manh nha hình thành một số nội dung của miễn TNHS như các Sắc lệnh, Thông tư, Pháp lệnh từ năm 1945 đến năm 1982…. đã thừa nhận và áp dụng với nhiều tên gọi khác nhau như: "xá miễn", "tha miễn trách nhiệm hình sự", "miễn tố", "tha bổng bị cáo", "miễn nghị cho bị cáo", "miễn hết cả tội"...

Như vậy, cho đến thời điểm trước khi ban hành BLHS năm 1985, mặc dù chưa có khái niệm chính thống về miễn TNHS là gì nhưng trong một số văn bản hiện hành của thời kỳ đó đã manh nha hình thành các nội dung của miễn TNHS.

Bộ luật Hình sự năm 1985, với tư cách là văn bản lập pháp hình sự lớn và quan trọng đầu tiên mà trong đó chứa đựng hệ thống pháp luật hình sự thực định đã được pháp điển hóa của Nhà nước Việt Nam thống nhất sau 40 năm kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945) và sau 10 năm kể từ khi đất nước đã được thống nhất và thu về một mối (năm 1975) thì trong suốt 14 năm áp dụng Bộ luật Hình sự của năm 1985 (nếu tính đến năm 1999 khi có Bộ luật Hình sự thứ hai) như là nguồn trực tiếp duy nhất của pháp luật hình sự thực định nước nhà sau pháp điển hóa mà trong đó lần đầu tiên đã có sự phân chia rò ràng giữa các quy phạm của Phần chung và Phần riêng với cơ cấu gồm 12 chương và được phân chia thành 280 điều để kịp thời điều chỉnh về mặt pháp lý hình sự các quan hệ xã hội đang tồn tại và đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong suốt 14 năm từ giữa những năm 80 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX (1985-1999).


Bộ luật Hình sự nói riêng chính là đạo luật quan trọng nhất của nước ta quy định về tội phạm và hình phạt nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

Bên cạnh đó, đối với chế định miễn TNHS với các tên gọi khác nhau được áp dụng trong thời kỳ này chủ yếu để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý, đó là "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo". Đối với trường hợp đại xá, cùng với truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã thực thi chính sách nhân đạo về xử lý hình sự và thi hành án hình sự đối với người phạm tội, được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự, thông qua đó tạo điều kiện cho người phạm tội hưởng nhiều chính sách khoan hồng, tự nguyện cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng. Có thể nói, không có một biện pháp cưỡng chế, răn đe hay giáo dục, cải tạo nào có tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến tâm lý của người phạm tội như đại xá, bằng việc những phạm nhân được trực tiếp chứng kiến việc trả lại tự do cho những phạm nhân được hưởng đại xá. Đại xá đã mang lại cho phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù khát vọng được trở về xã hội, tái hòa nhập cộng đồng và làm lại cuộc đời.

Như vậy, miễn TNHS được áp dụng trong trường hợp xá miễn. Và cũng theo Điều 4 Sắc lệnh số 52/SL này thì "Những tội được xá miễn đều coi như không phạm bao giờ; quyền công tố sẽ tiêu hủy, những chính hình và phụ hình mà Tòa án đã tuyên đều bỏ hết”. Hay tại Điều 2 Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 quy định tội phạm về chức vụ ghi nhận "Trong trường hợp này, tang vật hối lộ được hoàn trả" [38, tr. 476]. Như vậy, trong văn bản này, thuật


ngữ “miễn hết cả tội” được sử dụng như miễn TNHS như quy định pháp luật hiện hành.

Điều 20 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 quy định về những trường hợp giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt như sau: "Kẻ nào phạm tội phản cách mạng nêu ở mục 2 mà tội phạm thuộc vào một hoặc nhiều trường hợp sau đây thì được giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt”.

1. Có âm mưu phạm tội, nhưng đã tự nguyện không thực hiện tội phạm.

2. Tội phạm chưa bị phát giác mà thành thật tự thú, khai rò những âm mưu và hành động của mình và của đồng bọn….

Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất. Pháp luật hình sự thời kỳ này bắt đầu đi vào củng cố và phát triển để điều chỉnh các quan hệ xã hội của thời kỳ xã hội mới- xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng ngừa và chống các tội phạm, các việc làm vi phạm Hiến pháp và pháp luật theo tinh thần nghiêm khắc và kiên quyết, song khi xử lý từng vụ án cụ thể cần phải kết hợp "Nghiêm trị với khoan hồng, trừng trị với cải tạo, giáo dục". Do đó, tháng 04/1976, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03-BTP/TT hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định về tội phạm và hình phạt vẫn nêu rò nguyên tắc xét xử bọn phản cách mạng là: "Nghiêm trị bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn có nhiều tội ác, bọn ngoan cố chống lại cách mạng; khoan hồng đối với những kẻ bị ép buộc, bị lừa phỉnh, lầm đường và những kẻ thật thà hối cải; giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt cho những kẻ lập công chuộc tội".[33]

Đối với tội nhận hối lộ, vào ngày 20/05/1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ. Khi Pháp lệnh này được ban hành, đánh dấu một bước ngoặt trong công tác lập pháp, nhằm góp phần củng


cố, giữ vững và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, động viên và khuyến khích tất cả công dân tích cực tham gia đấu tranh chống tệ nạn hối lộ. Trong Pháp lệnh đã ghi nhận chính thức vấn đề miễn TNHS và Điều 8 Pháp lệnh đã quy định cụ thể ba trường hợp miễn TNHS, giảm nhẹ hình phạt và miễn hình phạt, đó là:

"1. Người phạm tội hối lộ, trước khi bị phát giác, chủ động khai rò sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ, thì có thể được miễn TNHS; nếu là phạm tội nghiêm trọng thì có thể được giảm nhẹ hình phạt.

2. Người phạm tội hối lộ, sau khi bị phát giác, tỏ ra thành thực hối cải, khai rò sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ thì có thể được giảm nhẹ hình phạt.

3. Người phạm tội lần đầu và không nghiêm trọng, sau khi bị phát giác tỏ ra thành thực hối cải khai rò sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ, thì có thể được miễn hình phạt".[55; tr15]

Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự đã ban hành trong thời kỳ này cho thấy, những trường hợp được xem xét để áp dụng miễn TNHS có thể bao gồm:

1. Có quyết định đại xá;

2- Có âm mưu phạm tội nhưng tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội;

3- Trước khi sự việc bị phát giác đã thành thật tự thú khai rò âm mưu, hành động của mình và của đồng bọn;

4- Người phạm tội đã có những hành động ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

5- Bị bắt trước khi bị xét xử, người phạm tội đã tỏ ra thành thật hối cải lập công chuộc tội hoặc tự nguyện bồi thường hoặc sửa chữa thiệt hại gây ra;

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí