- Hành vi đó phải diễn ra trên thị trường
- Hành vi phải diễn ra thường xuyên, liên tục
- Hành vi đó có mục đích sinh lợi.
Như vậy, có thể hiểu chủ thể kinh doanh bao gồm hai loại pháp nhân và thể nhân.
* Pháp nhân: là một thực thể pháp lý
- Được thành lập hay thừa nhận một cách hợp pháp
Những cơ quan, tổ chức được coi là thành lập hợp pháp khi chúng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập hoặc tuân thủ các thủ tục do luật định ra, được tổ chức dưới những hình thức nhất định với chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động rõ ràng theo các quy định của pháp luật.
- Có tài sản riêng: 1 tổ chức được coi là có tài sản riêng khi
Có thể bạn quan tâm!
- Luật kinh doanh dùng cho sinh viên hệ đào tạo đại học từ xa 2007 - 1
- Quyền Và Nghĩa Vụ Đối Với Vốn Và Tài Sản: Điều 13 - 14 Luật Dnnn
- Khái Niệm Doanh Nghiệp Và Các Loại Hình Doanh Nghiệp:
- Các Loại Hình Công Ty Theo Quy Định Của Luật Doanh Nghiệp:
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
+ Tổ chức đó có một khối lượng tài sản nhất định phân biệt với tài sản của cơ quan cấp trên hoặc của các tổ chức khác
+ Có một số quyền năng nhất định để chi phối khối lượng tài sản đó và tự chịu trách nhiệm độc lập bằng chính tài sản đó.
- Tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình bằng số tài sản riêng đó
- Là nguyên đơn hay bị đơn trước cơ quan tài phán
* Thể nhân: là những thực thể pháp lý độc lập về tư cách chủ thể, song ở đó không có sự tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó với chủ sở hữu của nó.
Tóm lại chủ thể kinh doanh hợp pháp trên thực tế là những đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, nhưng đây không phải là điều kiện để xác định sự tồn tại hợp pháp hay không của các chủ thể kinh doanh. Vấn đề pháp nhân hay thể nhân chỉ liên quan đến việc xem xét chế độ trách nhiệm về mặt tài sản trong kinh doanh là hữu hạn hay vô hạn mà thôi.
Trách nhiệm vô hạn được hiểu là tính vô hạn (thậm chí vĩnh cửu) của nghĩa vụ trả nợ
Trách nhiệm hữu hạn là tính có giới hạn về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.
1.2- VAI TRÒ CỦA LUẬT KINH DOANH TRONG NỀN KINH TẾ
1.2.1- Luật kinh doanh trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Luật kinh doanh được coi là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều đó được thể hiện khá rõ nét trong các giáo trình của các trung tâm đào tạo cử nhân luật ở nước ta. Theo quan niệm trong các giáo trình đó, Luật kinh doanh được hiểu là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình lãnh đạo và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các tổ chức kinh tế XHCN với nhau.
Như vậy Luật kinh doanh là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh chủ yếu giữa các tổ chức XHCN với nhau trong quá trình lãnh đạo và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Chủ thể của Luật kinh doanh chủ yếu là những tổ chức XHCN. Trong thời kỳ bao cấp, việc kinh doanh chủ yếu được các tổ chức thuộc thành phần kinh tế quốc doanh tiến hành. Chính vì vậy, để điều chỉnh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình kinh doanh XHCN, Luật kinh
doanh trong thời kỳ này tập trung ghi nhận các chế độ pháp lý liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh. Cụ thể, nội dung của Luật kinh doanh gồm có những chế độ pháp lý chủ yếu như: địa vị pháp lý của các chủ thể Luật kinh doanh, chế độ pháp lý về tài sản của các đơn vị kinh tế quốc doanh; chế độ pháp lý về kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân; chế độ pháp lý hạch toán kinh tế; chế độ hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.
Nói tóm lại, do tính chất của kinh doanh trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Luật kinh doanh trong thời kỳ này chủ yếu ghi nhận về tổ chức và hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế quốc doanh. Tuy nhiên trong thời kỳ này, Luật kinh doanh là phương tiện pháp lý của nhà nước để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch nhà nước, góp phần to lớn vào việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hàng năm, kế hoạch dài hạn của Nhà nước.
1.2.2- Luật kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay đổi cơ bản tính chất của các quan hệ trong kinh doanh. Điều này cũng đưa đến yêu cầu tất yếu phải có sự thay đổi trong nội dung của Luật kinh doanh cho phù hợp với thực tế khách quan.
Về thực chất, Luật kinh doanh trong giai đoạn này vẫn được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp hoặc giữa chúng với cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Nội dung của Luật kinh doanh có bốn bộ phận quy phạm pháp luật cơ bản đó là: pháp luật về chủ thể kinh doanh; chế độ hợp đồng kinh tế; pháp luật về phá sản doanh nghiệp; pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các quyền tự do kinh doanh của công dân, tự do cạnh tranh của các tổ chức kinh tế cũng như các quyền năng động sáng tạo của họ phải được ghi nhận. Đồng thời để ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh, gian dối, lừa đảo trong kinh doanh... nên không thể thiếu được sự quản lý của nhà nước trên cơ sở pháp luật, nhất là Luật kinh doanh đối với toàn bộ nền kinh tế. Với ý nghĩa nêu trên, Luật kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng được thể hiện qua các điểm sau:
- Thông qua Luật kinh doanh, Nhà nước đã thể chế hoá các đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng thành các quy định pháp lý có tính chất bắt buộc chung đối với các chủ thể của Luật kinh doanh.
- Luật kinh doanh tạo hành lang pháp lý thuận lợi để khuyến khích tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào kinh doanh nhằm tăng nguồn vốn kinh doanh, mở rộng các hoạt động kinh doanh, các hình thức tổ chức kinh doanh, các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Thông qua đó thúc đẩy nền kinh tế ổn định và tăng trưởng.
- Luật kinh doanh là cơ sở pháp lý xác định địa vị pháp lý cho các chủ thể kinh doanh với
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của nó
- Luật kinh doanh điều chỉnh các hành vi kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra lành mạnh.
- Luật kinh doanh quy định các vấn đề tài phán trong kinh doanh, quy định trình tự, thủ tục, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh vừa bảo đảm được quyền tự định đoạt của các chủ thể kinh doanh vừa đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN.
- Luật kinh doanh quy định điều kiện và trình tự thủ tục giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và các bên có liên quan; thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo đảm trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế và trật tự xã hội.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường Luật kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho Nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh một cách hiệu quả, đồng thời không can thiệp sâu vào hoạt động của các tổ chức kinh tế, góp phần đảm bảo nền kinh tế quốc dân ổn định và tăng trưởng vững chắc.
TÓM TẮT CHƯƠNG I
1. Khái niệm Luật kinh doanh:
Luật kinh doanh là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước và trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh doanh:
- Quan hệ quản lý kinh tế
- Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh.
- Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ một số doanh nghiệp
- Quan hệ phát sinh trong hoạt động tài phán
Đặc điểm và cơ sở pháp lý của từng nhóm quan hệ.
3. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh doanh:
- Phương pháp mệnh lệnh
- Phương pháp thỏa thuận
4. Chủ thể của Luật kinh doanh:
- Điều kiện để trở thành chủ thể của Luật kinh doanh
+ Đối với cơ quan, tổ chức: Được thành lập hợp pháp Có tài sản riêng
Có thẩm quyền kinh tế
+ Đối với cá nhân:
Có năng lực hành vi dân sự hoàn toàn
Có giấy phép hoạt động, đã đăng ký kinh doanh hoặc được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
- Phân loại chủ thể của Luật kinh doanh
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
+ Các đơn vị kinh tế
- Chủ thể kinh doanh
+ Pháp nhân
+ Thể nhân
5. Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế
- Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế tập trung
- Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I
1. Các quan niệm về Luật kinh doanh? Khái niệm Luật kinh doanh?
2. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật kinh doanh?
3. Điều kiện (dấu hiệu) để trở thành chủ thể của Luật kinh doanh đối với cơ quan, tổ chức?
4. Điều kiện (dấu hiệu) để trở thành chủ thể của Luật kinh doanh đối với cá nhân?
5. Phân loại chủ thể của Luật kinh doanh?
6. Khái niệm chủ thể kinh doanh?
7. Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế tập trung?
8. Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế thị trường?
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
GIỚI THIỆU CHƯƠNG II
Nền kinh tế Việt Nam đang vận động và phát triển theo cơ chế nền kinh tế nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng XHCN trên nguyên tắc Hiến định là tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn xác định thành phần kinh tế Nhà nước (kinh tế quốc dân) giữ vai trò chủ đạo, là cán cân cho toàn bộ nền kinh tế.
Xuất phát từ chủ trương quan điểm trên pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước ra đời nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh quanh thành phần kinh tế quan trọng này. Tại chương II sẽ tìm hiểu những nội dung cơ bản nhất về doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 bao gồm các khái niệm về doanh nghiệp nhà nước, phân loại, trình tự thành lập, quyền và nghĩa vụ, tổ chức quản lý và các nội dung cơ bản khác.
Những nội dung sẽ được trình bày trong chương này sẽ cho thấy sự giống và khác nhau giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác do tính sở hữu về vốn đặc thù của nó. Tuy nhiên, trên nguyên tắc tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ nên về cơ bản doanh nghiệp nhà nước giống các loại hình doanh nghiệp khác đặc biệt là về quyền và nghĩa vụ trong các lĩnh vực.
NỘI DUNG
2.1 KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC:
2.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
2.2.2 Phân loại doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước được phân thành các loại như sau:
- Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước. Công ty Nhà nước được tổ chức dưới hình thức Công ty nhà nước độc lập, Tổng công ty nhà nước.
- Doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước được tổ chức dưới hình thức: Công ty cổ phần Nhà nước, Công ty TNHH nhà nước một hoặc hai thành viên trở lên.
+ Công ty cổ phần Nhà nước: là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước hoặc tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
+ Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên: là công ty TNHH do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
+ Công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở lên: là công ty TNHH trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
- Công ty có 1 phần vốn góp của nhà nước là doanh nghiệp mà phần vốn góp của nhà nước trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống.
2.2 THÀNH LẬP CÔNG TY NHÀ NƯỚC:
2.2.1 Ngành, lĩnh vực, địa bàn được thành lập mới công ty nhà nước:
- Ngành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội
- Ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn.
- Ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao.
- Địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
2.2.2 Thẩm quyền đề nghị thành lập Công ty nhà nước:
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2.2.3 Thẩm quyền quyết định thành lập công ty nhà nước:
- Thủ tướng Chính phủ.
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
2.2.4 Hồ sơ đề nghị thành lập công ty nhà nước:
- Tờ trình đề nghị thành lập công ty
- Đề án thành lập công ty (sự cần thiết thành lập, địa điểm đặt trụ sở, dự kiến mô hình tổ chức quản lý công ty)
- Dự thảo điều lệ công ty
- Đơn xin giao đất, thuê đất
- Đơn đề nghị được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về khuyến khích đầu tư (nếu có).
2.2.5 Thẩm định hồ sơ:
Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị thành lập công ty nhà nước, người có thẩm quyền ký quyết
định thành lập phải lập Hội đồng thẩm định hồ sơ trên cơ sở các điều kiện sau:
- Có hồ sơ hợp lệ theo quy định tại Khoản 4 Điều 7 Luật doanh nghiệp Nhà nước
- Bảo đảm đủ điều kiện về vốn; mức vốn điều lệ phù hợp với ngành nghề kinh doanh đòi hỏi phải có vốn pháp định.
- Dự thảo điều lệ của công ty không được trái với quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước và các quy định khác của pháp luật.
- Đề án thành lập mới công ty phải mang tính khả thi.
2.2.6 Quyết định thành lập công ty Nhà nước:
Sau khi hồ sơ thành lập công ty nhà nước đã được thẩm định đủ điều kiện, trong thời gian 30 ngày người có thẩm quyền quyết định thành lập công ty nhà nước ký quyết định thành lập và phê chuẩn điều lệ, nếu từ chối, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
2.2.7 Đăng ký kinh doanh:
Trong thời gian 60 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập, công ty phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp. Công ty nhà nước có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau đó công ty mới được tiếp nhận vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn để đầu tư, xây dựng doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh.
Trong thời gian 30 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty phải đăng báo hàng ngày của địa phương và trung ương trong 5 số liên tiếp.
2.3 TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY NHÀ NƯỚC:
Tổ chức quản lý công ty nhà nước theo hai mô hình:
2.3.1 Công ty nhà nước không có Hội đồng quản trị:
Công ty nhà nước không có Hội đồng quản trị có cơ cấu quản lý gồm: Giám đốc, các Phó giám đốc, Kế toán trưởng và Bộ máy giúp việc.
(Quyền và nghĩa vụ cụ thể được quy định từ Điều 24 - 27 Luật doanh nghiệp NN)
- Giám đốc là người điều hành công ty, đại diện theo pháp luật của công ty và chịu trách nhiệm trước người bổ nhiệm, người ký hợp đồng thuê và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền, nhiệm vụ được giao.
- Phó Giám đốc là người giúp Giám đốc điều hành công ty theo phân công và ủy quyền của Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công và uỷ quyền.
- Kế toán trưởng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán của Công ty, giúp Giám đốc giám sát tài chính tại Công ty theo pháp luật về tài chính, kế toán. Chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền.
- Bộ máy giúp việc bao gồm Văn phòng và các phòng, ban chuyên môn, nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp việc cho Giám đốc, các Phó giám đốc trong quản lý, điều hành công việc.
2.3.2 Công ty Nhà nước có Hội đồng quản trị:
Mô hình này được áp dụng ở các Tổng công ty nhà nước và Công ty nhà nước độc lập bao
gồm:
- Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập
- Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
- Công ty nhà nước độc lập có quy mô vốn lớn giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
Công ty nhà nước có Hội đồng quản trị bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và Bộ máy giúp việc (Quyền và nghĩa vụ cụ thể được quy định từ Điều 29 - 43 Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003)
- Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước tại Tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập có Hội đồng quản trị, có quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc xác định và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu phân cấp cho các cơ quan, tổ chức khác là đại diện chủ sở hữu thực hiện.
Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước người quyết định thành lập Tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập có Hội đồng quản trị, người bổ nhiệm và trước pháp luật về mọi hoạt động của Tổng công ty, công ty.
- Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật, điều hành hoạt động hàng ngày của công ty theo mục tiêu, kế hoạch phù hợp với điều lệ công ty và các nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị; chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
- Phó Tổng giám đốc giúp Tổng giám đốc điều hành công ty theo phân công và ủy quyền của Tổng giám đốc; chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền.
- Kế toán trưởng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán của công ty; giúp Tổng giám đốc giám sát tài chính tại công ty theo pháp luật về tài chính, kế toán; chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền.
- Bộ máy giúp việc bao gồm Văn phòng và các phòng, ban chuyên môn, nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp việc cho Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành công việc.
2.4 TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC:
2.4.1 Khái niệm Tổng công ty nhà nước:
Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn giữa các công ty nhà nước, giữa công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế-kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn Tổng công ty.
2.4.2 Các loại hình Tổng công ty nhà nước:
Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 quy định 3 loại hình Tổng công ty bao gồm:
- Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập: là hình thức liên kết và tập hợp các công ty thành viên hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế-kỹ thuật chính, nhằm tăng cường tích tụ, tập trung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn Tổng công ty.
Loại hình Tổng công ty này có thể có các đơn vị thành viên là: các đơn vị do Tổng công ty
đầu tư toàn bộ vốn điều lệ (gồm công ty thành viên hạch toán độc lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc;