Nông Nghiệp Nam Đàn Phản Ánh Rõ Nét Bức Tranh Kinh Tế Tiểu Nông Tự Cung Tự Cấp Lỗi Thời Và Lạc Hậu‌


phản ánh của 40 địa bạ ở Nam Đàn, do nhiều nguyên nhân, từ năm 1802 đến năm 1884, cư dân làng xã đã khai thác đất đai hoang hoá, các vùng bãi bồi ven sông hoặc các gò đồi, thung lũng dọc chân núi Đại Huệ, Thiên Nhẫn để trồng rau màu, cây ăn quả... Các bản địa bạ có thống kê chi tiết diện tích các loại ruộng đất này nhưng diện tích đất đai thực tế lại lớn hơn rất nhiều so với con số thống kê trong địa bạ và được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau trong làng xã. Thực trạng sở hữu đất đai này cho thấy mặc dầu nhà Nguyễn đã rất nỗ lực trong việc quản lý ruộng đất ở địa phương, nhưng việc nắm được toàn bộ diện tích ruộng đất ở làng xã, nhất là diện tích được cày cấy để đánh thuế đã vượt ra ngoài khả năng của vương triều Nguyễn.

Ngoài ra, trong 5 tổng với 40 xã, thôn ở Nam Đàn được ghi chép trong địa bạ chỉ có 01 người sở hữu trên 50 mẫu đất với tổng diện tích là 58 mẫu 7 sào 3 tấc chiếm 0,51% diện tích; số còn lại chủ yếu là các lớp sở hữu từ 1 - 10 mẫu đất chiếm 71,75% diện tích. Điều đó cho thấy, trên địa bàn huyện Nam Đàn dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884 chỉ có tầng lớp địa chủ nhỏ, còn địa chủ lớn và vừa chỉ là hiện tượng hi hữu. Đặc biệt, việc nhiều quan chức địa phương (Lý trưởng, Chánh tổng...) chỉ sở hữu từ 1- 3 mẫu đất cho thấy quá trình địa chủ hoá tầng lớp chức dịch địa phương ở Nam Đàn suốt khoảng thời gian đề tài xác định diễn ra chậm, không giống với một số nhận định trong các công trình đã công bố trước đây.

Trong nông nghiệp, quan hệ bóc lột theo hình thức địa tô truyền thống giữa những địa chủ nhỏ với nông dân làng xã tiếp tục được duy trì và trở thành một trong những quan hệ phổ biến trong đời sống xã hội ở Nam Đàn. Tuy nhiên, việc mỗi gia đình địa chủ chỉ sở hữu từ 1 - 10 mẫu đất dẫn đến một thực tế là số lượng thành viên làng xã chịu sự bóc lột của địa chủ không lớn. Hơn nữa, do chịu ảnh hưởng của quan hệ cộng cư, huyết thống, tín ngưỡng, tôn giáo... mà mức thu tô thuế của tầng lớp địa chủ nhỏ đối với số nông dân cày thuê, cuốc mướn không quá cao. Điều này dẫn tới mâu thuẫn giữa địa chủ nhỏ và vừa với nông dân làng xã thời kỳ 1802 - 1884 không gay gắt, quyết liệt như một số địa phương khác ở Việt Nam thời bấy giờ.

5.3. Nông nghiệp Nam Đàn phản ánh rõ nét bức tranh kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp lỗi thời và lạc hậu‌

Ở nửa đầu thế kỷ XIX, nông nghiệp vẫn là nguồn sống chủ yếu của hơn 90% dân cư và là hoạt động chính yếu, cung hiến tài nguyên cho nhà nước. Vì vậy, các vua Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức đều rất coi trọng, quan tâm đến nông nghiệp. Tuy


nhiên, trong phạm vi kinh tế, do sự chi phối của tư tưởng bảo thủ cấu tạo giai cấp nhà Nguyễn đã không có một tầm nhìn đầy đủ về sự phát triển chung của xã hội, nhất là tầm quan trọng của sự phát triển công thương nghiệp. Đối với các vua triều Nguyễn, nông nghiệp vẫn là cơ bản, là cái gốc của sự ổn định và phát triển xã hội mà quên mất thực tế trước mắt là tình hình ruộng đất và nông nghiệp không còn như các triều đại trước đó [170, tr.171]. Những nỗ lực của nhà Nguyễn trong việc phát triển nông nghiệp như: khẩn hoang, phục hóa, trị thủy, thủy lợi, miễn giảm tô thuế, khuyến khích đại bộ phân cư dân về quê khôi phục sản xuất, cứu tế dân nghèo lúc mất mùa, dịch bệnh, đói kém, thiên tai, đã có những tác dụng tích cực đối với nông nghiệp. Nhưng trong vị thế là một triều đại đang trên bước đường suy tàn của chế độ phong kiến, những hạn chế về giai cấp, cùng thái độ chưa kiên quyết và thiếu sự quản lý thống nhất, toàn diện, mà những nỗ lực của nhà Nguyễn đã không giải quyết được các vấn đề cấp thiết liên quan đến nông nghiệp. Càng về sau, dưới tác động của tình hình ruộng đất, sức ép dân số, sự đình đốn trong sản xuất, cùng thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, đói kém, khiến hiện tượng bần cùng, phá sản của nông dân ngày càng nghiêm trọng, nông nghiệp rơi vào tình trạng khủng hoảng trong sự lạc hậu, trì trệ, lỗi thời, không đảm bảo được đời sống của người nông dân trong làng xã.

Trong bối cảnh chung của bức tranh nông nghiệp nước ta dưới triều Nguyễn, nông nghiệp huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 không có nhiều thay đổi so với các thế kỷ trước. Cơ bản vẫn là một nền kinh tế tiểu nông mang tính tự cung tự cấp lỗi thời, lạc hậu, lấy trồng trọt, chăn nuôi với quy mô hộ gia đình làm nền tảng. Công cụ lao động, giống cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, cách thức làm đất, gieo cấy, thu hoạch vẫn là sự kế thừa các phương thức canh tác truyền thống của các thế hệ cha, ông đi trước. Quy mô sản xuất và năng suất mùa vụ luôn trong tình trạng bấp bênh trước diễn biến bất thường của điều kiện tự nhiên, họa thiên tai. Do đó, nếu nhìn từ góc độ ngành trồng trọt thì rõ ràng sự bấp bênh, trì trệ, lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên là phổ biến. Đây cũng là nét chung so với ngành trồng trọt ở các huyện khác trong phủ Anh Đô nói riêng và toàn trấn/tỉnh Nghệ An nói chung. Thực tế này minh chứng rõ thêm cho những ghi chép của Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí về tình trạng mất mùa, đói kém diễn ra liên miên ở trấn/tỉnh Nghệ An, buộc các vua nhà Nguyễn phải xuống chiếu miễn thuế hay mở kho lương phát chẩn cho dân ở lưu vực sông Lam trong thế kỷ XIX. Điểm đáng lưu ý trong tình hình nông nghiệp của cư dân làng xã ở Nam Đàn là


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

một bộ phận dân nghèo ít ruộng, hoặc không có ruộng để cày cấy đã tiến hành khai thác diện tích đất phù sa ven sông Lam, đất gò đồi bán sơn địa, hay cả sườn núi Đại Huệ, Thiên Nhẫn để biến thành các trại (rày) để trồng trọt, chăn nuôi. Sản phẩm nông nghiệp thu được từ các trại (rày), vùng đất khai hoang, hay trong mảnh vườn của các hộ gia đình đã góp phần không nhỏ giúp cư dân làng xã Nam Đàn vượt qua đói kém, mất mùa, giáp hạt hàng năm.

Trong diện tích công điền, tư điền do nhà nước quản lý, thống kê địa bạ có đề cập đến ruộng chùa, đây là loại ruộng mang tính chất tôn giáo, tín ngưỡng. Ruộng chùa có nguồn gốc từ lâu đời, đây là loại ruộng được nhà nước ban cấp trong làng xã nơi có các công trình tâm linh hoặc do tăng ni, phật tử, những người đỗ đạt thành danh, những gia đình giàu có ở địa phương vì yếu tố tín ngưỡng mà cung tiến. Việc sử dụng ruộng chùa do tăng ni, phật tử và cư dân trong làng cày cấy, hoa lợi thu được do nhà chùa quản lý, sử dụng vào mục đích duy trì sinh hoạt tôn giáo. Trên mảnh đất Nam Đàn nơi “cổ tích thần thiêng”, tiếng gõ mõ, chuông chùa, tiếng tụng kinh của tăng ni, phật tử vào mỗi buổi sáng hay lúc hoàng hôn trong các ngôi chùa, cùng hình ảnh mái đình, cây đa, giếng nước, từ bao thế kỷ trước tiếp tục tồn tại gắn kết mọi thành viên trong làng xã, góp phần gìn giữ những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của cộng đồng cư dân vùng hạ lưu sông Lam.

Kinh tế huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802 - 1884 - 18

Trong 40 địa bạ mà chúng tôi tiếp cận, diện tích ruộng họ và ruộng học điền không được đề cập chi tiết như các loại ruộng đất khác trong tổng diện tích đất đai của huyện Nam Đàn. Tuy nhiên, trong thực tế những diện tích này là đất dân thôn, trích lục từ ruộng đất tư. Nguồn tư liệu gia phả các dòng họ Nguyễn Cảnh, họ Lê (Xuân Hoà), Nguyễn Văn (Xuân Lâm), Nguyễn Đức (Khánh Sơn), Vương Đình (Thị trấn), Bùi Danh, Bùi Hữu (Thanh Thuỷ) và một số dòng họ danh gia khác cho biết, trong những dòng họ này thường có từ 05 sào đến 01 mẫu ruộng họ. Toàn bộ diện tích này được anh em trong dòng họ luân phiên cày cấy, hoa lợi thu được phục vụ cho hoạt động cúng tế tổ tiên, ông bà hàng năm. Ngoài ra, theo Hương ước của làng Yên Lạc, làng Đa Lạc, Chung Tháp, Tự Trì, Hoành Sơn, Trung Cần, Khoa Trường mà chúng tôi tiếp cận được có đề cập đến việc cư dân làng, xã có dành từ 2 - 3 mẫu ruộng từ Nhất đẳng điền đến Nhị đẳng điền để ban cấp cho những hộ gia đình có con cháu theo nghiệp đèn sách bút nghiên lo việc cày cấy. Nhà nước không đánh thuế các diện tích ruộng họ và ruộng học. Khi thi đỗ Cử nhân hoặc Tiến sĩ, Phó bảng (cả ngạch văn và


ngạch võ), ngoài việc dân làng võng, lọng đón rước theo nghi thức khác nhau, thì các tân Cử nhân, Tiến sĩ, Phó bảng sẽ được dân làng cấp cho 03 sào đến 05 sào đất ruộng và 01 đến 02 sào đất để dựng nhà cửa. Trường hợp Thám hoa Nguyễn Đức Đạt, Thám hoa Nguyễn Đức Giao, Tiến sĩ Vương Hữu Phu, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc [170], được dân làng cấp ruộng đất sau khi đỗ đạt cho gia đình cày cấy là những minh chứng cho thấy, bộ máy chức sắc và cư dân trong làng, xã ở huyện Nam Đàn rất coi trọng đạo học, luôn khuyến khích việc học đối với con em trong làng xã.

Ở Nam Đàn, trong nông nghiệp ngoài nghề trồng lúa đóng vai trò chủ đạo thì nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm chủ yếu là để cung cấp nguồn thực phẩm phục vụ trong bữa ăn gia đình, tận dụng sức kéo, lấy phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài việc các gia đình tự chăn nuôi một số gia súc, gia cầm của mình còn tồn tại hình thức nuôi rẽ (thuê) trâu, bò cho những gia đình giàu có. Đây là một hiện tượng phổ biến trong nghề chăn nuôi trong làng xã, những người nhận nuôi rẽ trâu bò thường là những gia đình không có trâu, bò hoặc có thì số lượng rất ít, họ nhận nuôi rẽ là để tận dụng sức kéo phục vụ sản xuất nông nghiệp trong gia đình. Ngoài ra, trong sự thỏa thuận về tỷ lệ chia 50/50 (nếu bán đi, hoặc trâu, bò sinh con) giữa chủ sở hữu trâu bò và người nuôi rẽ cho thấy người nhận nuôi cũng có thể sinh lợi khi trâu, bò sinh sản tốt, hoặc bán được giá.

Hoạt động khai thác nguồn lợi thuỷ sản dọc đôi bờ sông Lam, các sông suối, bàu, hồ nới có diện tích mặt nước vẫn tiếp tục được duy trì với các loại phương tiện và cách thức khai thác truyền thống như: lưới, vó, nơm, nhủi, câu, lờ, hoặc be bờ dùng gàu sòng, gàu giai tát cạn nước để đánh bắt. Mọi thành viên trong làng xã đều có thể tham gia vào hoạt động khai thác nguồn lợi thuỷ sản, bởi hầu hết các sông, suối, ao, hồ đều có nguồn gốc tự nhiên, phân bố ở hầu khắp các làng xã. Đặc biệt, một số làng như làng Trung Hoà, làng Leo, Nam Bình, Đông Giai, Xóm Hố (Diên Lãm), Phú Thọ, Tầm Tang, Khoa Trường, còn có việc dân làng tổ chức khai thác cá ở bàu Láng, bàu Lầm vào dịp cuối năm. Theo lệ, cuối mùa lũ, người ta cấm mọi thành viên trong làng được khai thác cá ở các hồ, bàu, trọt... Đến dịp cuối năm (thường sau rằm tháng 12 đến 25/12 âm lịch), chức sắc trong làng chọn ngày tốt và cho phép mọi thành viên làng xã cùng tham gia đánh bắt, khai thác thủy sản (tiếng địa phương gọi là vậy trọt) trong các diện tích đầm, hồ.

Trong nghề khai thác thủy sản, sự hiện hữu của các vạn thuỷ cơ (các làng chuyên nghề đánh cá) trên địa bàn huyện Nam Đàn, cho thấy hoạt động khai thác thuỷ


sản đã trở thành một nghề chính yếu (không canh tác nông nghiệp) của một bộ phận cư dân sống dọc theo đôi bờ sông Lam.

Sự tồn tại dai dẳng của nền kinh tế nông nghiệp mang tính tiểu nông tự cung tự cấp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta nói chung, trấn/tỉnh Nghệ An và Nam Đàn nói riêng suốt thế kỷ XIX đẩy các ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống vào tình trạng không thoát ly hẳn khỏi nông nghiệp. Chính sách thuế khóa của Nhà nước đối với thủ công nghiệp ở địa phương khá nặng nề, tùy tiện truy thu theo quy định của từng địa phương, cùng việc độc quyền mua bán sản phẩm thủ công với giá rẻ, khiến cho đời sống của thợ thủ công, các nghề thủ công truyền thống trong làng xã luôn trong tình cảnh khó khăn, không có động lực phát triển. Hậu quả là, trên đất Nghệ An, ngoài một số làng nghề truyền thống như: Nghề làm nồi đất ở Trù Ú, Đại Sơn (Đô Lương), nghề làm nước mắm ở Vạn Phần (Diễn Châu), nghề đóng thuyền ở Trung Kiên (Nghi Lộc) phát triển, trở thành những làng nghề với quy mô lớn, còn hầu hết các nghề thủ công truyền thống khác ở các phủ, huyện đều chỉ là nghề phụ, sản phẩm làm ra chủ yếu tiêu thụ tại chỗ ở các chợ làng, xã, chợ tổng, chợ huyện, hoặc giao thương nội vùng giữa các địa phương lân cận trong tỉnh là chính. Thậm chí một số nghề thủ công truyền thống còn bị mai một dần. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến một thực tế là: thời kỳ 1802 - 1884, mặc dù có nhiều chợ, quán được phân bố khắp nơi trong làng, xã đến tận phủ huyện, song, trên địa bàn toàn tỉnh Nghệ An, chưa hình thành một tầng lớp thương nhân hoàn toàn thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp và thiếu hẳn những làng nghề truyền thống đủ khả năng sản xuất những sản phẩm có mặt ở hầu khắp các tỉnh thành trong cả nước hay xuất khẩu. Tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp Nam Đàn vẫn là những gam màu phụ trong bức tranh kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp.

5.4. Tác động của kinh tế Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884 đến các hoạt động văn hóa, xã hội‌

Trong bối cảnh nền kinh tế ở khu vực nông thôn dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX vẫn ở trong giai đoạn kinh tế thực sinh, tự cung tự cấp đóng chặt trong khung cảnh của làng xã. Sản phẩm nông nghiệp hầu như chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ, trong khi các hoạt động thủ công nghiệp, thương nghiệp được xem là những hoạt động phụ, bổ trợ cho hoạt động chính yếu là nông nghiệp. Nếu các vua nhà Nguyễn có một chính sách kinh tế, thì chính sách ấy cũng chỉ chú trọng đến việc chấn hưng và khuếch trương nông nghiệp [2, tr.320].


Trên nền tảng thực trạng kinh tế đó, hoạt động văn hóa, xã hội của cư dân trên địa bàn huyện Nam Đàn thời kỳ 1802 - 1884, không có nhiều biến động, cấu trúc xã hội và lực lượng xã hội về căn bản vẫn giữ nguyên như các thời kỳ trước với các giai cấp, tầng lớp như: địa chủ và nông dân, thợ thủ công và thương nhân, cùng các tầng lớp sĩ phu văn thân và quan lại địa phương. Có thể thấy, trên phương diện tổng quan của xã hội, trật tự “sĩ, nông, công, thương” và các quan hệ gia đình dựa trên nền tảng tư tưởng Nho giáo có vai trò chi phối đối với đời sống xã hội và văn hóa trong ở Việt Nam nói chung, huyện Nam Đàn nói riêng.

Dưới thiết chế chính trị - xã hội quân chủ thời Nguyễn, trong cơ cấu xã hội nông dân là giai cấp chiếm đa số trong làng xã, họ là lực lượng chính tạo ra của cải cật chất nuôi sống toàn bộ xã hội. Trong thế kỷ XIX, qua các nguồn tài liệu liên quan đến huyện Nam Đàn đều cho thấy: do điều kiện địa hình, thổ nhưỡng và chính sách của các triều đại phong kiến nên kinh tế nông nghiệp nơi đây chủ yếu là tự cấp tự túc, sản lượng và năng suất bấp bênh, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Bên cạnh đó, tình hình sở hữu ruộng đất huyện Nam Đàn thời Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX hiện tượng ruộng đất bị bao chiếm bởi nạn cường hào ở địa phương khá phổ biến khiến cho nông dân không có ruộng đất đề cày cấy diễn ra hầu hết ở các làng xã trong huyện. Mặt khác, tình trạng thiên tai, dịch bệnh hoành hành, cộng với sự nhũng nhiễu của quan lại cường hào chốn hương thôn đã đẩy hàng loạt nông dân Nam Đàn vào con đường bần cùng hóa, phải phiêu tán khắp nơi.

Trong thế kỷ XIX, thủ công nghiệp ở Nam Đàn được biết đến với sự tồn tại của hơn 20 nghề (đã được thống kê ở phần trên), đã cho thấy sự đa dạng về các nghề, làng nghề thủ công, mặt khác còn phản ánh lực lượng xã hội tham gia vào hoạt động sản xuất thủ công nghiệp là tương đối lớn. Dưới triều Nguyễn, các nghề, làng nghề thủ công ở Nam Đàn vẫn mang tính chất là ngành hỗ trợ cho nông nghiệp, do vậy quy mô phát triển của các nghề thủ công chỉ ở mức vừa phải, chủ yếu phát triển dựa trên những nguồn lực sẵn có ở địa phương, sản phẩm của “những hàng ấy cũng đủ dùng trong dân gian mà người làm nghề cũng chỉ đủ ăn mà thôi” [106; tr.221]. Tuy nhiên, không vì thế mà tầng lớp thợ chủ công nơi đây lại thua thiệt về kỹ thuật, hạn chế về độ tinh xảo trong các sản phẩm nghề, mà trái lại một số nghề, làng nghề ở Nam Đàn với nhiều sản phẩm thủ công có giá trị thương phẩm cao, chất lượng tốt được nhiều nơi


biết đến như: đồ gốm, đồ mộc, vải tơ lụa, rổ rá, nong nia, gạch, ngói, đá ong, tương, đường mật... chủ yếu phục vụ nhu cầu giao thương nội vùng.

Sự đa dạng về ngành nghề trong nông nghiệp và thủ công nghiệp đã tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng như cầu thiết yếu của đời sống nhân dân, đồng thời tạo điều kiện cho thương nghiệp ở Nam Đàn phát triển. Trong quan niệm của người Việt xưa cho rằng, thương nghiệp với nghề chủ đạo là hoạt động kinh doanh, buôn bán, trao đổi chỉ là “buôn thúng bán mẹt”, “mua thừa bán thiếu”, mua chỗ này rẻ rồi bán chỗ kia đắt, ăn chênh lệnh, không làm ra của cải vật chất, sản phẩm tinh thần cho xã hội. Do vậy, trong xã hội tầng lớp thương nhân, người làm nghề buôn bán được xếp vào hàng thấp nhất trong “tứ dân”. Dưới triều Nguyễn, với hệ thống chợ từ chợ trong làng, xã đến chợ tổng, chợ huyện mà tầng lớp thương nhân, người làm nghề buôn bán ở Nam Đàn khá phát triển về số lượng, họ tập trung ở chốn thị tứ Sa Nam cho đến chợ làng xã, tận các làng nghề khắp vùng nông thôn. Đến nay, chưa có tài liệu nào thống kê về số lượng thương nhân làm nghề buôn bán trong các tư liệu liên quan đến huyện Nam Đàn, nhưng căn cứ sự phát triển quy mô các chợ và hệ thống chợ từ chợ làng, xã, chợ tổng đến chợ huyện đã phần nào đã phản ánh được lực lượng này.

Thương nhân ở Nam Đàn hầu hết là người buôn bán nhỏ lẻ, do nền kinh tế tự cấp tự túc với quan niệm “dĩ nông vi bản” cùng tư tưởng “trọng nông ích thương” nên lề lối làm ăn buôn bán của họ cũng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ cho cư dân nông nghiệp là chính. Dưới triều Nguyễn, Nam Đàn được xem là đất trung tâm của xứ Nghệ, nơi đóng thành phủ Anh Sơn, sự phát triển của mạng lưới giao thông cả đường thủy lẫn đường bộ đã tạo điều kiện cho hoạt động buôn bán trao đổi diễn ra khá nhộn nhịp. Sự phát triển mạnh của hệ thống chợ từ chợ huyện cho đến chợ làng, xã phát triển trên khắp vùng đất Nam Đàn đã tạo điều kiện cho tầng lớp thương nhân phát triển về cả số lượng lẫn hàng hóa buôn bán giao thương. Tuy nhiên, lúc bấy giờ so với các tầng lớp khác trong xã hội Nam Đàn, tầng lớp thương nhân cũng không có đủ cơ hội và điều kiện để trở thành một tầng lớp xã hội đông đảo, có tiềm lực kinh tế.

Xét trên phương diện đời sống, về cơ bản những hộ gia đình có làm nghề buôn bán thương nghiệp ở Nam Đàn thường có điều kiện dư giả hơn so với cư dân làm nông nghiệp thuần túy. Nhưng khi nhà Nguyễn tìm mọi cách đề cao sự học, tôn trọng sĩ tử, có những chính sách miễn giảm binh dịch, phu phen; trong các làng, xã thuộc tổng


Non Liễu, Lâm Thịnh, Nam Kim ở huyện Nam Đàn còn dành toàn bộ hoa lợi của ruộng học điền để phục vụ cho người theo nghiệp đèn sách; trong hương ước của làng còn quy định việc đón rước người đỗ đạt trong ngày vinh quy bái tổ... Thì rõ ràng, những người buôn bán dù có ít tiền của, nhưng họ khó lòng nhận được sự tôn trọng từ chính anh em trong dòng họ và cả bà con lối xóm. Không những thế, trong buôn bán, dù quy mô còn nhỏ lẻ nhưng họ phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng của nhà nước, chịu sự chi phối của định kiến xã hội về nghề nghiệp mưu sinh. Đây chính là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến thực trạng cả trấn/tỉnh Nghệ An suốt thế kỷ XIX không có được một tầng lớp thương nhân giàu có, sống tách biệt khỏi làng xã, cho dù những chợ có quy mô lớn trong tỉnh như chợ Giát, chợ phủ Diễn, chợ Vinh, chợ Sa Nam, chợ Tràng... hội đủ nhiều yếu tố thuận lợi để buôn bán và phát triển.

Trong thời kỳ 1802 - 1884, dưới tác động của kinh tế, các hoạt động văn hóa, đời sống xã hội của cư dân trong làng xã ở Nam Đàn diễn ra không thay đổi nhiều so với các thời kỳ trước. Người nông dân Nam Đàn vẫn là tầng lớp đông đảo nhất, họ là lực lượng lao động chính sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, nhưng chính họ cũng là tầng lớp chịu nhiều áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa trong đời sống xã hội. Các quan hệ xã hội bao trùm luôn xoay quanh mâu thuẫn chính: đó là mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến thống trị chủ yếu là quan lại, địa chủ áp bức bóc lột với đông đảo nhân dân lao động mà chủ yếu là nông dân. Do vậy, trong thế kỷ XIX, dưới sự chỉ huy của tầng lớp sĩ phu không cam chịu sự áp bức của triều đình mà ở khắp nơi trong cả nước, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra nhằm chống lại nhà nước phong kiến. Các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuấn (1811), cuộc khởi nghĩa của nông dân các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, La Sơn, Đông Thành, Quỳnh Lưu (1813), khởi nghĩa của Lê Hữu Tạo (1818) và đặc biệt là khởi nghĩa của Lê Quang Chấn (1823) và khởi nghĩa Giáp Tuất (1874) do Trần Tấn và Đặng Như Mai khởi xướng đã cho thấy sức sống quật cường, ý chí và tinh thần đoàn kết, yêu nước, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn của các giai tầng ở Nam Đàn dưới thời Nguyễn.

Bùi Dương Lịch trong Nghệ An ký nhận xét hết sức tinh tế, chính xác về thực trạng kinh tế, đời sống văn hóa, xã hội của người dân Nghệ An nói chung, Nam Đàn nói riêng đầu thế kỷ XIX “Do đất xấu dân nghèo nên chịu khổ nhẫn nại, cần cù kiệm ước đã quen nề nếp”, tuy nhiên trong đời sống họ “đều vui vẻ công việc sẵn sàng vì

Xem tất cả 203 trang.

Ngày đăng: 16/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí