Chuẩn Mực Kiểm Toán Được Chấp Nhận Phổ Biến (Gaas-Generally Accepted Auditing Standards)

Hoạt động tư vấn này trước hết được thực hiện chủ yếu trong các lĩnh vực nguồn thu và sử dụng công quỹ. Ngoài ra, chức năng tư vấn còn tham gia vào việc phác thảo và xem xét những dụ kiến về luật trước khi đưa ra Quốc hội.

2/ Ở khu vực kinh doanh

Ở khu vực này, chức năng bày tỏ ý kiến được thực hiện thông qua hình thức tư vấn, biểu hiện dưới các lời khuyên.

Sản phẩm cụ thể của chức năng bày tỏ ý kiến thể hiện rò nhất vào cuối thế kỷ XX cho đến nay khi kiểm toán bắt đầu phát triển. Sản phẩm của một cuộc kiểm toán là báo cáo kiểm toán, đồng thời đưa ra những nhận xét, kết luận về những nội dung đã được kiểm toán. Đồng thời, thông qua báo cáo kiểm toán kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nhận xét, kết luận và kiến nghị của mình.

Chức năng tư vấn được đưa vào trong báo cáo kiểm toán ngoài việc xác nhận hoặc chỉ ra những sai lệch, những vi phạm pháp luật, những vi phạm kinh tế trong điều hành và quản lý tài chính-ngân sách còn đưa ra những kiến nghị, biện pháp để sửa chữa, khắc phục những sai sót, những vi phạm và ngăn chặn không cho chúng lặp lại trong tương lai.

Chức năng tư vấn được thể hiện cả trong khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân:

- Chức năng tư vấn trong khu vực Nhà nước: Qua quá trình làm việc, kiểm toán Nhà nước sẽ thông báo kết quả hoạt động của mình một cách đầy đủ, có giá trị và đáng tin cậy về tình hình thu chi Ngân sách Nhà nước, chấp hành kế hoạch Ngân sách nhà nước, tình hình quản lý tài chính kinh tế ở khu vực công, để từ đó một mặt làm căn cứ cho Quốc hội xem xét phê chuẩn quyết toán cũng như phân bổ Ngân sách Nhà nước, một mặt giúp cho Chính phủ hoạch định các chính sách và đề ra các biện pháp tăng cường quản lý vĩ mô nền kinh tế. Đồng thời qua đó đề xuất các ý kiến với Bộ tài chính nhằm góp phần hoàn thiện trong việc xây dựng các dự thảo kế hoạch Ngân sách, các văn bản quy định pháp luật về Ngân sách tài chính kế toán.

- Chức năng tư vấn trong khu vực tư nhân: Chức năng tư vấn được thể hiện chủ yếu thông qua các lời khuyên về quản trị tài chính, đầu tư, thuế…

Trong trường hợp này, nếu sản phẩm của chức năng bày tỏ ý kiến là xác minh độ tin cậy của thông tin là “ báo cáo kiểm toán (audit report)” thì sản phẩm của chức năng bày tỏ ý kiến ở dạng tư vấn là “ thư quản lý (management letter)”.

Ngoài chức năng tư vấn trong quản trị doanh nghiệp, ngày nay các công ty kiểm toán chuyên nghiệp còn phát triển chức năng này trong các lĩnh vực chuyên sâu đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính như vấn đề về đầu tư, thuế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

1.4. Phân loại kiểm toán

1.4.1. Phân loại kiểm toán theo đối tượng cụ thể

Kiểm toán căn bản - 4

Theo cách phân loại này, kiểm toán có thể phân thành ba loại sau:

- Kiểm toán tài chính.

- Kiểm toán tuân thủ.

- Kiểm toán hoạt động.

1.4.1.1. Kiểm toán tài chính

Kiểm toán tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính được kiểm toán.

Kiểm toán tài chính là việc thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán của các kiểm toán viên để nhằm xác minh tính trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính.

Hoăc

chúng ta cũng có thể trình bày:

Kiểm toá n tài chính là loaị hình kiểm toán có đối tương là cać baó caó taì chính

cần đươc

kiểm toán

Kiểm toán tài chính là viêc xać minh và baỳ tỏ ý kiêń của cać kiêm̉ toań viên về

các báo cáo tài chính cần được kiểm toán.

Tuy các khái niệm về kiểm toán kể trên được diễn đạt bằng những từ ngữ khác nhau nhưng nhìn chung có một số thuật ngữ chúng ta cần làm rò. Đó chính là “tính trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu”.

1.4.1.2. Kiểm toán hoạt động

Ta có thể xem xét một số khái niệm kiểm toán hoạt động sau:

Kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán nhằm đánh giá và nâng cao 3E của các hoạt động, nghiệp vụ cụ thể của đơn vị được kiểm toán.

Kiểm toán hoạt động là là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.

Tuy nhiên khái niệm chính thống nhất đó là:

Kiểm toán hoạt động là một quá trình đánh giá có hệ thống về sự hữu hiệu, tính hiệu quả, tính kinh tế của các hoạt động dưới sự kiểm soát của nhà quản lý và báo cáo cho các cá nhân thích hợp về kết quả của việc đánh giá, đồng thời đưa ra những kiến nghị để cải tiến.

Trong quá trình thực hiện một cuộc kiểm toán, ở giai đoạn cuối cùng của kiểm toán hoạt động, kiểm toán viên sẽ trình bày ý kiến nhằm hoàn thiện hoạt động được kiểm toán của đơn vị. Kiểm toán hoạt động thường hướng vào giải quyết hai vấn đề cơ bản sau:

- Thứ nhất, nó đi xác minh tính trung thực của thông tin và nghiệp vụ tài chính, đồng thời đánh giá tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ.

- Thứ hai, mục tiêu hoạt động của tất cả các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh đó là tối đa hóa lợi nhuận. Do vậy, kiểm toán hoạt động cũng phải hướng tới mục tiêu này thông qua việc sử dụng nguồn nhân lực, vốn và tài nguyên. Từ thực tế

đó, trong kiểm toán có một thuật ngữ diễn đạt vấn đề này do các chuyên gia kiểm toán Canada tìm ra đó là “3E”: Vậy “3E” đó là:

+ Tính kinh tế (Economic): Là thuật ngữ dùng để chỉ việc mua sắm các nguồn lực phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị được đảm bảo một cách hợp lý cả về số lượng và chất lượng sao cho chi phí bỏ ra là thấp nhất.

+ Tính hiệu quả (Efficience): Là thuật ngữ dùng để so sánh giữa kết quả đạt được và nguồn lực bỏ ra trên cơ sở kết quả mang lại là tối đa và chi phí bỏ ra là tối thiểu. Hay nói cách khác, tính hiệu quả là sự thành công trong việc sử dụng các lợi thế tốt nhất mà đơn vị có.

+ Tính hiệu năng(Effectiveness): Là thuật ngữ dùng để so sánh giữa kết quả đạt được và mục tiêu đề ra trong các điều kiện xã hội. Hay nói cách khác, tính hiệu năng là sự thành công trong việc đáp ứng các mục tiêu đề ra của đơn vị. Thuật ngữ này thường được sử dụng trong các đơn vị hành chính sự nghiệp.

Việc tiến hành quy trình cũng như xác định kết quả của kiểm toán hoạt động thường khó xác định hơn so với kiểm toán tài chính, bởi tính hiệu quả, hiệu năng trong kiểm toán hoạt động rất khó được đánh giá một cách khách quan và chính xác so với việc xem xét tính tuân thủ và cách trình bày bảng khai tài chính trên cơ sở chuẩn mực kế toán và các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận. Do vậy, ở các doanh nghiệp có quy mô, có lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì 3E cũng khác nhau. Đó cũng là nguyên nhân tại sao việc xây dựng các tiêu chuẩn để đánh giá các thông tin có thể định lượng được trong một cuộc kiểm toán hoạt động thường mang tính chủ quan và khó thực hiện.

Ví dụ: Tiến hành đánh giá hiệu quả của việc đầu tư vào một dây chuyền sản xuất thì kiểm toán viên sẽ sử dụng thông số kỹ thuật để tiến hành kiểm tra. Nhưng nếu cuộc kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá hiệu quả của website bán hàng thì tiêu chuẩn đánh giá lại là số người truy cập, tốc độ đường truyền…

Theo nghĩa này, kiểm toán hoạt động có tính chất tham vấn hơn là việc thực hiện một cuộc kiểm toán.

1.4.1.3. Kiểm toán tuân thủ

Kiểm toán tuân thủ là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá và xác nhận việc tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị kiểm toán phải thực hiện.

Loại hình kiểm toán này nhằm mục đích xác định đơn vị được kiểm toán có tuân thủ các nguyên tắc quản lý mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên đã đề ra hay không? Việc thực hiện kiểm toán tuân thủ phải dựa trên cơ sở: các điều luật, quy tắc, chính sách và thủ tục của một tổ chức.

Ví dụ:Cuộc kiểm toán của cơ quan thuế về việc tuân thủ luật thuế thu nhập doanh nghiệp.


thức:

Trên thực tiễn, kiểm toán tuân thủ thường được tiến hành thông qua hai hình


- Sự kiểm tra của cơ quan kiểm toán Nhà nước đối với các đơn vị sử dụng ngân

sách Nhà nước để trang trải cho hoạt động của mình về việc chấp hành các chế độ chính sách, việc sử dụng kinh phí và vốn có đúng mục đích hay không?

- Sự kiểm tra mức độ tuân thủ các quy chế ở các đơn vị trực thuộc do cơ quan cấp trên tiến hành.

Ví dụ: Kiểm toán việc chấp hành các điều khoản trong hợp đồng tín dụng đối với các đơn vị sử dụng vốn vay ngân hàng. Chuẩn mực, cơ sở để tiến hành kiểm toán là hợp đồng tín dụng. Chủ thể kiểm toán là ngân hàng.

1.4.2. Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán

Theo cách phân loại này, kiểm toán đươc chia thành 3 loại:

- Kiểm toán Nhà nước.

- Kiểm toán độc lập.

- Kiểm toán nội bộ.

1.4.2.1.Kiểm toán Nhà nước

Kiểm toán Nhà nước là bộ máy chuyên môn của Nhà nước về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

1.4.2.2.Kiểm toán độc lập

Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán và doanh nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp, tổ chức khi có yêu cầu của các đơn vị này.

1.4.2.3. Kiểm toán nội bộ

Kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do các kiểm toán viên của đơn vị tiến hành. Đây là tổ chức của các kiểm toán viên không chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn thực hiện kiểm toán phục vụ mục đích quản trị nội bộ trong doanh nghiệp.

1.5. Giới thiệu chuẩn mực kiểm toán

1.5.1. Khái quát chung về chuẩn mực kiểm toán

Trong tất cả các ngành nghề, chuẩn mực chính là những nguyên tắc hay qui tắc tối thiểu mà các thành viên trong một nghề tuân theo và xem đó như cơ sở để đánh giá chất lượng công việc.

Chuẩn mực kiểm toán hiểu theo nghĩa chung nhất là những quy phạm pháp lý, là thước đo (khuôn mẫu chuẩn mực) giống nhau cho những khách thể và chủ thể kiểm toán khác nhau và được sử dụng để điều tiết các hành vi của kiểm toán viên và các bên hữu quan theo hướng chủ đạo và mục tiêu xác định. [1]

Do quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm toán và đối tượng cụ thể kiểm toán khác nhau nên chuẩn mực cụ thể để điều chỉnh các quan hệ đó cũng khác nhau chẳng hạn chuẩn mực cụ thể dùng để điều tiết các chủ thể kiểm toán khác nhau như kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Từ đó, chuẩn mực kiểm toán cũng có thể được biểu hiện bởi các hình thức khác nhau song có thể quy về hai hình thức cơ bản là luật kiểm toán và hệ thống chuẩn mực kiểm toán cụ thể.

+ Loại 1:Hình thức pháp lý cao nhất của chuẩn mực kiểm toán là luật kiểm toán được cơ quan lập pháp (Quốc hội) thông qua và ban hành. Do đó, tính pháp lý của các quy định đạt ở mức cao và có quan hệ ở phạm vi rộng, nó có ý nghĩa điều tiết các hành vi của nhiều phía có liên quan. Hiện nay, hình thức này được ứng dụng phổ biến ở các nước Tây Âu.

Ở Việt Nam, Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 7 ngày 14/06/2005 đã thông qua Luật kiểm toán Nhà nước (văn bản luật số: 37/2005/QH11), Chủ tịch nước công bố ngày 24/06/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006.

+ Loại 2:Hệ thống chuẩn mực cụ thể, các chuẩn mực kiểm toán thường do tổ chức nghề nghiệp công bố và áp dụng cho kiểm toán tài chính nói chung hoặc cho từng phân hệ kiểm toán tài chính nói riêng. Hệ thống chuẩn mực này rất cụ thể, có thể là hướng dẫn, hay những giải thích về những nguyên tắc cơ bản để kiểm toán viên có thể áp dụng trong thực tế, để đo lường và đánh giá công việc kiểm toán. Hình thức này được ứng dụng rộng rãi trước hết ở Anh, ở các nước Bắc Mỹ và sau đó ở nhiều nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, hệ thống các chuẩn mực này do Bộ Tài chính ban hành.

Để chỉ đạo cho việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực cụ thể, Liên đoàn kế toán quốc tế (International federation of Accountants-IFAC) đã soạn thảo và công bố các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế (International Auditing guidelines-IAGs). Cho đến nay đã có 29 IAGs như vậy.

Mỗi văn bản chỉ đạo nói trên có thể là những hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể (IAG 5, IAG 7..) hoặc hướng dẫn môt chuyên mục cụ thể (IAG 4, IAG 6, IAG 8...) hoặc khái quát những nguyên tắc theo một hệ thống xác định (IAG 3, IAG 13, IAG 19..). Do đó, việc nghiên cứu có hệ thống các văn bản này để sử dụng tổng hợp theo loại vấn đề cụ thể sẽ giúp ích nhiều trong việc xây dựng hoặc ứng dụng các chuẩn mực kiểm toán cụ thể.

Nội dung cụ thể của các văn bản hướng dẫn trên đã được công ty VACO dịch và xuất bản vào năm 1992.

1.5.2. Chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận phổ biến (GAAS-GENERALLY ACCEPTED AUDITING STANDARDS)

GAAS là những chuẩn mực có hiệu lực mà kiểm toán viên phải tuân thủ khi tiến hành kiểm toán và cách thức bảo đảm chất lượng công việc kiểm toán. Những chuẩn

mực này trở thành thông lệ quốc tế phổ biến và đương nhiên được chấp nhận trong phạm vi quốc tế hoặc quốc gia.

Hiện nay chuẩn mực kiểm toán chung được thừa nhận rộng rãi bao gồm 10 chuẩn mực gồm 10 chuẩn mực được chia thành 3 loại: chuẩn mực chung, chuẩn mực nghiệp vụ và chuẩn mực báo cáo.

1.5.2.1. Chuẩn mực chung

Nhóm này gồm ba chuẩn mực và được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của một cuộc kiểm toán. Chúng bao gồm các chuẩn mực đào tạo nghiệp vụ và sự thành thạo chuyên môn, tính độc lập, cũng như sự thận trọng nghề nghiệp thích đáng. Cụ thể:

- Việc kiểm toán phải do một người hay một nhóm người được đào tạo nghiệp vụ tương xứng và thành thạo chuyên môn như một kiểm toán viên thực hiện.

- Trong tất cả các vấn đề liên quan tới cuộc kiểm toán, kiểm toán viên phải giữ một thái độ độc lập.

- Kiểm toán viên phải duy trì sự thận trọng trong nghề nghiệp đúng mực trong suốt cuộc kiểm toán (lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán).

1.5.2.2. Chuẩn mực thực hành

Ba chuẩn mực thực hành này yêu cầu kiểm toán viên phải tuân thủ khi thực hiện công việc kiểm toán thực tế. Những chuẩn mực này đề cập đến việc lập kế hoạch và giám sát công việc kiểm toán, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và thu thập đầy đủ các bằng chứng có hiệu lực. Cụ thể:

- Phải lập kế hoạch chu đáo cho công việc kiểm toán và giám sát chặt chẽ những người giúp việc nếu có.

- Phải hiểu biết đầy đủ về hệ thống kiểm soát nội bộ để lập kế hoạch kiểm toán và xác định nội dung, thời gian và quy mô của các thử nghiệm sẽ thực hiện.

- Phải thu được đầy đủ bằng chứng có hiệu lực thông qua iệc kiểm tra, quan sát, thẩm vấn và xác nhận để có được những cơ sở hợp lý cho ý kiến về báo cáo tài chính được kiểm toán.

1.5.2.3. Chuẩn mực báo cáo

Bốn chuẩn mực báo cáo cung cấp cho kiểm toán viên những chỉ dẫn để lập báo cáo kiểm toán. Những chuẩn mực này nhấn mạnh về việc báo cáo kiểm toán phải đưa ra được những vấn đề có liên quan tới tuân thủ các nguyên tắc kế toán được thừa nhận rộng rãi, tính nhất quán, sự trình bày khai báo và việc đưa ra ý kiến trên báo cáo kiểm toán. Cụ thể:

- Báo cáo kiểm toán phải xác nhân toàn bộ báo cáo tài chính có được trình bày phù hợp với những nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi (GAAP-Generally Accepted Accounting Principles) hay không.

- Báo cáo kiểm toán phải chỉ rò các trường hợp không nhất quán về nguyên tắc giữa kỳ này với các kỳ trước.

- Phải xem xét các khai báo trên báo cáo tài chính có đầy đủ một cách hợp lý không trừ những trường hợp khác được chỉ ra trong báo cáo.

- Báo cáo kiểm toán phải đưa ra ý kiến về toàn bộ báo cáo tài chính hoặc khẳng định không thể đưa ra ý kiến đượckèm theo việc nêu rò lý do. Trong mọi trường hợp ký tên vào báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải nêu rò trong báo cáo đặc điểm cuộc kiểm toán và mức độ trách nhiệm của kiểm toán viên.

Trong các chuẩn mực được chấp nhận rộng rãi có thể phân thành hai phân hệ rò rệt, đó là:

- Phân hệ thứ nhất: Các chuẩn mực chung cũng là những chuẩn mực về kiểm toán viên. Các chuẩn mực này được tổng quát trên ba mặt:

+ Được đào tạo nghiệp vụ và có trình độ tương xứng.

+ Độc lập.

+ Thận trọng thích đáng.

- Phân hệ thứ hai: Các chuẩn mực thực hành bao gồm hai loại:

Loại 1: Các chuẩn mực nghiệp vụ hay chuẩn mực công việc tại chỗ đề cập tới ba mặt sau:

+ Lập kế hoạch chu đáo và giám sát người giúp việc.

+ Hiểu biết hệ thống kiểm soát nội bộ và lựa chọn phép thử nghiệm thích hợp.

+ Phải thu được bằng chứng có hiệu lực và đầy đủ.

Loại 2: Các chuẩn mực báo cáo kiểm toán gồm bốn chuẩn mực cụ thể như sau:

+ Phải xác nhận báo cáo tài chính trong quan hệ phù hợp với những nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi.

+ Phải chỉ rò các trường hợp không nhất quán giữa các kỳ kế toán, đánh giá tính đầy đủ của khai báo.

+ Phải xem xét các khai báo kèm theo các báo cáo tài chính và đánh giá tính đầy đủ của khai báo.

+ Phải đưa ra ý kiến về toàn bộ báo cáo tài chính hoặc khẳng định không đưa ra ý kiến được (có lý do), phải nêu rò đặc điểm của cuộc kiểm toán, về trách nhiệm của kiểm toán viên.

1.5.3. Xây dựng chuẩn mực kiểm toán

Để xây dựng một hệ thống pháp lý nói chung và chuẩn mực kiểm toán nói riêng phải dựa trên cơ sở nhất định. Cơ sở chung của quy định pháp lý là quy phạm pháp lý. Quy phạm pháp lý có thể bao gồm:

- Quy phạm điều chỉnh: Qui định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp lý.


pháp.

- Quy phạm bảo vệ: Xác định các biện pháp cưỡng chế đối với hành vi bất hợp


- Quy phạm định ra các nguyên tắc, định hướng cho các hành vi.

- Quy phạm thủ tục: Qui định trình tự thực hiện các quy phạm nội dung nói trên. Trong trường hợp xây dựng hệ thống chuẩn mực cụ thể, Uỷ ban chuẩn mực kiểm

toán đã giới hạn các quan hệ pháp lý chỉ trong hoạt động kiểm toán trên cơ sở hình thành hai khối qui phạm: qui phạm đạo đức nghề nghiệp và quy phạm nghiệp vụ chuyên môn kiểm toán.

Bất kể có sự khác nhau trong cơ cấu quy phạm và phạm vi điều chỉnh của từng loại hình pháp lý, cơ sở cụ thể để xây dựng các điều khoản phải đi từ nhận thức đúng đắn và có cơ sở về đối tượng của từng loại quy phạm. Chẳng hạn quy phạm về đạo đức và nghề nghiệp phải xuất phát từ nhận thức của bản chất và truyền thống đạo đức và những quy định pháp lý thể chế hoá nhận thức nói chung. Từ đó cần cụ thể hoá bằng những giải thích cụ thể. Chỉ trên cơ sở đó mới xây dựng được quy tắc và chuẩn mực đạo đức cụ thể.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí